Mối quan tâm chính của người theo tôn giáo ở khắp mọi nơi
là câu hỏi: tôi sẽ về đâu khi tôi chết? Khi tôi dạy về tôn giáo, đây là một
trong những câu hỏi đầu tiên mà tôi thường nhận được từ các sinh viên. Người ta
ở mọi nơi băn khoăn về đời sống sau khi chết bởi vì nó hoàn toàn không được
biết đến. Thế nhưng, họ có thể làm bất cứ điều gì có thể để bảo đảm một đời
sống tốt sau khi chết. Mặc dù có những miêu tả về những vấn đề thưởng hay phạt,
thiên đường hay địa ngục ở trong nhiều tôn giáo, không ai có thể xác minh một
cách rõ ràng sự hiện hữu của chúng.
Trong bài viết này chúng tôi sẽ so sánh quan điểm của Thiên
Chúa giáo về đời sống sau khi chết với quan điểm Phật giáo. Trong khi có một
vài tương đồng, thì có những khác biệt quan trọng cần nên biết.
Truyền thống Thiên Chúa giáo tin vào cả Cựu và Tân ước.
Trong Cựu ước, khởi nguyên là Thánh kinh của người Do Thái, không có quan niệm
rõ ràng về đời sống sau khi chết. Nói chung, người ta nghĩ rằng họ sẽ đi đến âm
ty - nơi yên nghỉ cuối cùng - hay rằng họ sẽ yên nghỉ cùng với cha ông hay tổ
tiên của họ. Con người không bị phân biệt là có đức tin hay không có đức tin,
mà các bản văn hình dung con người của Israel cổ đại như là một khối.
Do Thái giáo về sau, được đặt cơ sở trên Thánh kinh Do thái
(Hebrew Bible), không phải là một tôn giáo thế giới đem sự cứu rỗi đến cho tất
cả loài người. Nó là một tín ngưỡng của một dân tộc riêng biệt tận tâm với
Thiên Chúa của họ như là dân của ngài và tuân giữ những điều răn của ngài. Mặc
dù những người Do Thái phải đại diện cho Thiên Chúa ở trong ngữ cảnh đời sống
của họ, họ không có mục đích cải đạo những người không phải là Do Thái.
Tân ước, được tạo lập bên trong Thiên Chúa giáo
(Christianity), chủ trương rằng, dựa vào niềm tin của một người vào Chúa Giê-su
(Jesus) như là Chúa cứu thế của loài người, người ta sẽ được lên thiên đường
hay xuống địa ngục. Những khái niệm này đã tạo cơ sở cho việc truyền bá phúc âm
Thiên Chúa giáo đến tận ngày này. Truyền thống Công giáo (Catholicsm) đã bổ
sung thêm khái niệm chuộc tội mà nó làm giảm bớt đi độ mạnh của các khái niệm
thiên đường và địa ngục. Có một con đường đi đến thiên đường thông qua việc
thanh tẩy ở nơi sự chuộc tội với sự trợ giúp của gia đình hay bằng hữu đối với
người chết.
Nguồn gốc của quan niệm phương Tây về tính nhị nguyên thiên
đường và địa ngục cho thấy đã bắt nguồn ở Ba Tư với giáo thuyết của nhà tiên
tri Zoroaster. Ông đã dạy về cuộc chiến đấu giữa Ahura Mazda, Thần Ánh sáng, và
Ahriman, thủ phạm của điều ác. Dựa vào những hành vi của mình, người ta sẽ rơi
vào địa ngục hay lên thiên đường. Khái niệm này được sáp nhập với khái niệm
Phán xét cuối cùng của những người Do Thái lưu vong ở Babylonia và Ba Tư (TK.VI
tr.TL).
Trong phát triển về sau của Do Thái giáo, sự tách biệt giữa
thiên đường và địa ngục đã giúp giải quyết câu hỏi về số phận của những cựu thù
của Israel và mang sự công bằng đến cho những người Do Thái mà họ đã chịu sự
lưu vong và rời xa quê hương của họ. Có một sự phán quyết sau cùng, sau một cuộc
phục sinh tập thể, ở đó tất cả những cựu thù của họ sẽ nhận lấy những thưởng
phạt công bằng của họ. Điều này đi đến một đặc điểm quan trọng trong quan niệm
của Thiên Chúa giáo, cho dù tương quan với niềm tin hay bác bỏ Chúa Giê-su. Ở
đó, trọng tâm của niềm tin người Do Thái là tập trung nhiều hơn vào con người
như một khối, còn quan điểm của Thiên Chúa giáo tập trung vào niềm tin hay
không tin thuộc cá nhân. Niềm tin của Hồi giáo chịu ảnh hưởng giáo lý Thiên
Chúa giáo và tập trung vào cá nhân.
Một khía cạnh của niềm tin Thiên Chúa giáo là rằng sau sự
phục sinh về thể xác và sự phán xét cuối cùng, những người ác sẽ bị ném vào một
hầm lửa vĩnh viễn. Những tín đồ sẽ được đưa lên thiên đường và ở đó họ sẽ sống
vĩnh hằng với Thiên Chúa.
Tuy nhiên, sự lan tỏa của Thiên Chúa giáo vào thế giới
Hy-La ở Địa Trung Hải đã đưa đến những thay đổi trong khái niệm về đời sống sau
khi chết. Quan niệm của người Do Thái đã ủng hộ một sự phục sinh và phán xét.
Những người đã chết nằm chờ trong mồ của họ cho đến khi có lời gọi của Thiên
Chúa đánh thức họ khỏi giấc ngủ để đối diện với sự phán xét. Thiên Chúa giáo
ban đầu đã sống trong sự mong chờ lần đến thứ hai của Chúa Giê-su và một sự
phục sinh tập thể và sự phán xét sau cùng.
Tuy nhiên, quan niệm Hy Lạp đã duy trì niềm tin vào một
linh hồn bất tử mà, khi thân xác bị hủy hoại, sẽ sống vĩnh hằng ở trong một
thiên đường hạnh phúc. Sự hiểu này dần được sáp nhập vào trong Thiên Chúa giáo
với niềm tin vào sự bất tử sau cái chết mà nó vượt qua quan niệm về phục sinh.
Bây giờ nó hoàn toàn là niềm tin chung rằng khi người ta chết, họ lập tức lên
thiên đường với Chúa Giê-su và những người thân yêu của họ. Tuy nhiên, niềm tin
vào lần đến thứ hai của Chúa Giê-su và một sự phán xét cuối cùng, mà nó hàm ý
sự phục sinh, vẫn tiếp tục tồn tại.
Một vấn đề khác ở trong niềm tin vào đời sống sau khi chết
của Thiên Chúa giáo là vấn đề trừng phạt đối với tội phạm. Không có sự phân
chia hay mức độ nào ở trong khái niệm địa ngục. Bất chấp sự thật rằng những
điều xấu ác hay tội lỗi mà những người bất tín phạm phải khác nhau ở mức độ và
kiểu thức, sự trừng phạt là không thay đổi đối với những người bất tín và tất
cả đều nhận chịu sự trừng phạt như nhau. Việc bị giáng xuống địa ngục là vĩnh viễn
mà không bao giờ có sự kết thúc.
Gần đây, khía cạnh tiêu cực của đời sống sau khi chết đã
được giám bớt đi và khía cạnh tích cực của đời sống vĩnh hằng ở nơi sự hiện
diện của Chúa Trời được nhấn mạnh. Thay vì chịu thiêu đốt trong một địa ngục
theo nghĩa đen, quan điểm về việc ngăn cách khỏi Thiên Chúa và sự cô độc cuối
cùng thường được nhấn mạnh.
* * *
Phật giáo xuất hiện bên trong ngữ cảnh tôn giáo Ấn Độ vào
thế kỷ VI trước TL. Niềm tin về các cõi trời và các cõi địa ngục đã có mặt rồi.
Từ khởi đầu Đức Phật dạy nguyên lý nghiệp và tái sanh, nhưng không giống tôn
giáo Ấn Độ, Ngài từ bỏ khái niệm về một linh hồn hay thực thể vĩnh cữu ở trong
chúng sanh và các sự vật. Không có một linh hồn bất tử như ở trong Ấn giáo và
Thiên Chúa giáo. Chúng sanh được cấu thành từ một tập hợp các yếu tố (ngũ uẩn)
mà chúng phân tán khi chết và nhận lấy một hình thức đời sống mới, tương ứng
với nghiệp của họ. Tiếp tục như vậy mãi cho đến khi ta giác ngộ hay chứng đắc
Niết-bàn.
Ngang qua những hành vi tốt và việc tu tập của mình, ta
trải qua nhiều giai đoạn tiến triển mãi cho đến khi có thể chứng đạt Niết-bàn.
Niết-bàn không phải là một nơi chốn mà, có lẽ, là một trạng thái phúc lạc, an
bình và hoan hỷ không thể mô tả được. Những ngọn lửa tham chấp được “dập tắt”
và thế giới phân biệt được vượt qua. Nó giải thoát khỏi nghiệp. Không có từ ngữ
nào đủ để định nghĩa nó.
Một quan điểm cao như vậy về đời sống sau khi chết là không
dễ đối với đa số. Phật giáo cũng có một triết học về đời sống sau khi chết. Vũ
trụ chia thành ba cấp độ, dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Ở dục giới, có sáu
cõi từ cõi của chư thiên đến xuống các cõi địa ngục. Ta có thể sanh vào một cõi
trời, hay làm một con người, một a-tu-la, một súc sanh, một quỷ đói hay một
chúng sanh ở địa ngục.
Tầng bậc tái sanh tùy thuộc vào sự vượt trội của nghiệp
thiện qua nghiệp ác hay ngược lại. 33 cõi trời là những cõi cao trong vũ trụ.
Cho dù ta sinh vào một trong các cõi này nhờ vào sức mạnh của thiện nghiệp, đời
sống ở đó không vĩnh viễn. Khi nghiệp lành hết, thì chư thiên và ngay cả các vị
thiên chủ, sẽ tái sanh vào thế giới khác tùy thuộc vào bản chất nghiệp trước
đây mà nay nó chính muồi. Ta có thể đạt lấy Niết-bàn chỉ từ cõi người mà ở đó
ta có thể tu tập theo giáo pháp Phật giáo.
Truyền thống Phật giáo Đại thừa của Bắc và Đông Á đã thêm những
xem xét xa hơn. Mục đích của Niết-bàn được thay bằng việc chứng đắc Phật quả.
Trước Phật quả là giai đoạn của Bồ-tát. Bồ-tát vào lúc đầu từ chối nhập
Niết-bàn để cứu độ tất cả chúng sanh vì lòng từ bi. Khi cuối cùng đạt đến Phật
quả, ngài sẽ tiếp tục công việc cứu độ của mình. Điều cốt yếu của Phật giáo Đại
thừa là lòng từ bi phổ quát.
Trong truyền thống Tịnh độ tông, bộ phái được phát triển
bên trong Đại thừa, niềm tin vào Phật A Di Đà và niệm danh hiệu của Ngài có thể
giúp một người bình thường được sanh về cõi Tịnh độ. Ở đấy, trong một môi
trường tốt nhất, vị ấy có thể đạt lấy Phật quả và tiếp tục những nỗ lực cứu độ
chúng sanh.
Đối nghịch với lĩnh vực từ bi ở các cõi trời hay Tịnh độ,
là những cõi địa ngục mà ở đó những người xấu ác sẽ đến do vì nghiệp nhân của
họ. Tuy nhiên, những địa ngục này cũng không vĩnh cữu mà tùy thuộc vào chu kỳ
nghiệp của mỗi người. Luôn luôn có khả năng đạt được Phật quả. Chính quan điểm
này của Phật giáo mà cuối cùng tất cả chúng sanh sẽ thành Phật và lòng từ bi và
trí tuệ viên mãn sẽ được thành tựu. Một trạng thái như vậy cũng là Niết-bàn, sự
giải thoát hoàn toàn ra khỏi sự trói buộc của nghiệp.
Quan điểm của Phật giáo khác với Thiên Chúa giáo ở chỗ
trạng thái của đời sống sau khi chết tùy thuộc vào nghiệp. Khi nghiệp chính muồi
như một hạt giống và nảy mầm thành một cái cây, có những khả năng mới xảy ra.
Thêm nữa, mục đích của đời sống sau khi chết không chỉ là để giải thoát mình ra
khỏi thế giới khổ đau, mà cũng làm việc để đưa tất cả chúng sanh khác đến sự an
bình của Phật quả và Niết-bàn.
Trong Phật giáo Đại thừa về sau ở Đông Á, quan điểm về một
linh hồn thường hằng trở nên phổ biến. Vào lễ Vu Lan (Obon), linh hồn của những
người thân yêu được tin quay về từ bờ giác bên kia hay từ cõi Tịnh độ để giúp
đỡ trong công việc trồng trọt và thu hoạch vụ mùa bằng việc mang mưa và sự sinh
sôi đến. Những người quá cố cũng được tin là đang trông nom những người thân
yêu của họ ở trong đời sống này và giúp đỡ vào những lúc khó khăn.
Trong giáo lý Phật giáo, quan niệm về thưởng và phạt không
mang nghĩa đen. Chúng được gọi là “upaya”, một thuật ngữ Sanskrit mà nó có
nghĩa là một phương tiện thiện xảo để thúc đẩy sự quan tâm và phát triển tôn
giáo. Tuy nhiên, vẫn có những người hiểu những hình ảnh huyền bí theo nghĩa đen
như là những trạng thái hiện hữu thực sự. Họ đã bỏ ra những nguồn tài sản đáng kể
vào việc cúng kiếng nhằm siêu thoát người chết. Tuy nhiên, phần lớn những hình
ảnh này được so sánh với những trạng thái tâm lý. Ví dụ, hình ảnh ngạ quỷ phổ
biến tại lễ Vu Lan có một cái bụng lớn và miệng nhỏ, phản ánh trạng thái tinh
thần tham lam mà tất cả chúng ta trải nghiệm. Những miêu tả là để hướng dẫn trạng
thái tinh thần của chúng ta trong đời sống này và khổ đau mà ta có thể tạo ra.
Thông qua những niềm tin này, Phật giáo có thể giúp người
ta chấp nhận những khó khăn trong đời sống và có những cái nhìn tích cực hơn
đối với số phận của tất cả. Những niềm tin này tương phản với một số trình bày
của Thiên Chúa giáo, trong việc nhấn mạnh rằng giải thoát sau cùng sẽ đến với
tất cả mọi chúng sanh. Kẻ xấu ác đã phạm phải điều gì, thì sự trừng phạt sẽ
tương thích với điều đó. Có sự công bằng cuối cùng dành cho tất cả. Mặc dù có
những hình ảnh gây sợ hãi trong cả Thiên Chúa giáo và Phật giáo, những hình ảnh
Phật giáo không phải là những trình bày mang nghĩa đen mà có giá trị giáo dục
trong việc khuyến khích việc tự phản chiếu bản thân và thấu rõ trạng thái tinh
thần hiện tại của ta.
Alfred Bloom (Giáo sư danh dự Đại học Hawaii - Hoa Kỳ).
Nguyên Hiệp dịch
Nguồn: shindharmanet.com