Tỳ-kheo Quảng Hưng - Nguyên Hiệp dịch
1. Giới thiệu
Chỉ một vài học giả hiện đại thực hiện những nghiên cứu so sánh
về khái niệm hiếu của Phật giáo và Nho giáo, chẳng hạn như Michihata Ryoshu và
Zhong Yulian. Cả Đạo đức học Phật giáo và
Nho giáo (Buddhist and Confucian Ethics) của Michihata Ryoshu và Tư tưởng hiếu trong Nho giáo và Phật giáo
(Filial Thought in Confucianism and Buddhism) của Zhong Yulian đã thảo luận
khái niệm hiếu của hai trường phái một cách riêng biệt, trường phái này xong rồi
đến trường phái kia. Do đó, ở ý nghĩa thật sự, những thảo luận của họ không phải
là những nghiên cứu so sánh, bởi vì họ không bàn luận về những tương đồng và
khác biệt cũng không phân tích nguyên nhân phía sau chúng. Sun Xiusheng cũng đã
viết một bài về đề tài này, có tựa, Một
nghiên cứu so sánh về khái niệm hiếu của Nho giáo và Phật giáo (A comparative
study of Confucian and Buddhist concepts of filial piety). Nhưng nghiên cứu
của Sun Xiusheng chỉ là một diễn tả đơn giản về một vài câu chuyện được tìm thấy
trong văn học Phật giáo, và ông cũng không tóm tắt khái niệm hiếu trong Nho
giáo cũng không phân tích nó trong Phật giáo. Wang Kaifu đã chạm đến khái niệm
hiếu trong bài viết của mình, Tư tưởng đạo
đức trong kinh Sigalovāda - những tương đồng và khác biệt giữa đạo đức học Nho
giáo và Phật giáo (The Ethical thought in the Sigalovāda Sūtra — the
similarities and differences of Confucian and Buddhist ethics).
Tỳ-kheo Quảng Hưng - Nguyên Hiệp dịch
Tuy nhiên Tông Mật (宗 密 780-841), một học giả Phật giáo Trung Quốc, đã có một nghiên cứu
so sánh văn tắt về hiếu đạo trong Phật giáo và Nho giáo trong luận giải của
mình về kinh Vu lan bồn (Ullambana). Nhưng trong thảo luận của
mình Tông Mật đã sử dụng hầu như văn học Đại thừa cũng như những quan điểm và
thực hành phổ biến vào thời của ông; cho nên những kinh sách Phật giáo sơ kỳ chẳng
hạn như các bộ A-hàm (Āgama) đã không
được sử dụng, chưa nói đến các bộ Nikāya tiếng
Pāli, mặc dù chúng là căn bản cho việc nghiên cứu cả khái niệm và thực hành hiếu
đạo trong Phật giáo. Như vậy, nghiên cứu so sánh của Tông Mật bị giới hạn ở phạm
vi. Chúng ta hiểu rằng Tông Mật có một mong muốn mạnh mẽ là hòa giải sự xung đột
giữa Nho giáo và Phật giáo. Do đó trong nghiên cứu của mình, ông đã khẳng định
rằng hiếu là nền tảng của cả Nho giáo và Phật giáo. Thực ra, nghiệp mới là nền
tảng của lời dạy đạo đức trong Phật giáo, mặc dù hiếu cũng được coi trọng.
Chính Nho giáo mới xem hiếu như là nền tảng của đạo đức.
Trong bài viết này, tôi chủ yếu giới hạn nơi những kinh sách nguyên
thủy của cả Phật giáo và Nho giáo. Về Nho giáo, tôi sử dụng những kinh sách như
Luận ngữ (論 語), Thi kinh (詩 經), Mạnh Tử (孟 子), Lễ ký (禮 記) và Hiếu kinh (孝 經 ); và với Phật giáo là các bộ Nikāya,
A-hàm (Āgama), Luật tạng của những trường phái khác nhau bằng tiếng Pāli và
ở những bản dịch Hán ngữ. Chọn những bản kinh này là bởi hai lý do sau. Trước hết,
chúng ta có thể tìm thấy định nghĩa và miêu tả căn bản về khái niệm hiếu ở
trong cả hai trường phái tư tưởng ở trong những kinh sách sơ kỳ của chúng; khái
niệm đã được phát triển và thay đổi trong những tác phẩm về sau bởi những đạo
sư khác nhau. Việc hiểu định nghĩa căn bản này về hiếu trong cả hai trường phái
cũng sẽ giúp chúng ta trong việc nghiên cứu vấn đề trong những tác phẩm về sau.
Thứ hai, có nhiều bản văn được viết bởi những đạo sư về sau của cả hai trường
phái liên quan đến vấn đề mà chúng tôi không thể giải quyết trong bài viết này
và phải để lại trong một bài khác.
Một vài học giả có thể nghĩ rằng việc sáng tác Hiếu kinh là về sau và khái niệm hiếu ở
trong đó đã được phát triển rồi, vì vậy nên đưa nó ra nếu tôi chỉ muốn sử dụng
những nguồn tài liệu sơ kỳ. Tôi đưa Hiếu
kinh vào xem xét như một trong những nguồn tài liệu sơ kỳ của Nho giáo bởi
vì nó là tác phẩm đại diện của Nho giáo về hiếu và nó tóm tắt khái niệm như đã
được phát triển mãi về sau. Kết quả, tác phẩm này được bao gồm trong mười ba
kinh sách của Nho giáo. Do đó, không đưa Hiếu
kinh vào trong nghiên cứu của tôi sẽ để lại một khoảng trống.
2. Những
tương đồng giữa Nho giáo và Phật giáo
Luân lý đạo đức là nền tảng của cả Phật giáo và Nho giáo và hiếu
là một lời dạy đạo đức quan trọng. Có năm điểm tương đồng giữa hai trường phái
tư tưởng liên quan đến hiếu.
1) Nhấn mạnh
việc báo ân cha mẹ
Tư tưởng báo ân cha mẹ được tìm thấy cả ở trong Phật giáo và Nho
giáo, nhưng cách thức báo ân lại khác nhau. Thi
kinh, mà nó được những Nho gia xem là chân thực, dạy quan điểm hiếu và báo
ân cha mẹ. Những kinh sách Nho giáo thường trích dẫn bản kinh này nhằm hỗ trợ
chứng cứ cho quan điểm của chúng. Thi kinh
nói:
“Cha người
sinh ra ta!
Mẹ người
nuôi dưỡng ta!
Ôm ấp, cho
bú mớm,
Nuôi, dạy bảo
nên người.
Săn sóc,
không rời bỏ
Bồng bế khi ra vào
Nay lúc để
báo đáp
Như trời rộng
vô cùng” (Thi kinh 2.3).
Thi kinh ở đây miêu tả những vất vả và khó nhọc của cha mẹ trong việc
nuôi dưỡng con cái, vì vậy nó nói rằng: “Đây là lúc ta phải báo đáp ân đức của
cha mẹ, nhưng ân đức ấy như trời cao rộng vô cùng”.
Trong cả hai truyền thống Nam–Bắc truyền Phật giáo, chúng ta bắt
gặp tư tưởng như được thể hiện trong Thi
kinh về tình thương của cha mẹ đối với con cái. Kinh Kataññu của Tăng chi bộ
viết:
“Này các Tỳ-kheo,
có hai người ta nói không bao giờ trả ơn được. Thế nào là hai? Đó là cha và mẹ.
Cho dù một vai ta mang mẹ và một vai ta mang cha, và làm như vậy một trăm năm
cho đến một trăm tuổi; và nếu người ấy cấp dưỡng cho cha mẹ, thoa xức, đấm bóp,
tắm rửa và chà rửa tay chân họ, và trong khi ấy họ có đại tiện lên người – cho
dù như vậy vị ấy cũng không thể báo đáp được công ơn của cha mẹ mình.
Thêm nữa,
này các Tỳ-kheo, nếu vị ấy an trí cha mẹ mình vào quyền uy tối thượng, trong việc
cai trị tuyệt đối khắp quả đất rộng lớn có đầy bảy loại châu báu này – dù vậy
cũng không thể báo đáp đủ cha mẹ. Vì cớ sao? Này các Tỳ-kheo, cha mẹ đã làm
nhiều điều cho con cái: cha mẹ nuối nấng và giáo dưỡng chúng, giới thiệu chúng
vào đời này”.
Từ những trích dẫn trên, rõ ràng là cả Phật giáo và Nho giáo có
cùng quan điểm về hiếu với việc nhấn mạnh vào những gian lao vất vả của mẹ cha.
2) Kính trọng
cha mẹ
Cả Phật giáo và Nho giáo đề cập đến lòng kính trọng đối với cha
mẹ. Luận ngữ nói: “Ngày nay ‘hiếu’ chỉ
có nghĩa là có thể nuôi dưỡng cha mẹ. Nhưng ngay chó ngựa cũng được nuôi. Vậy nếu
không có kính trọng thì chỗ khác nhau nằm ở đâu?” (Luận ngữ 1.7). Vì vậy
khái niệm hiếu đạo của Nho giáo là gốc và lễ là khuôn mẫu. Lễ ký cũng nói: “Có ba cấp độ
hiếu. Cao nhất là kính trọng cha mẹ; thứ hai là không làm họ hổ nhục; và thấp
nhất và nuôi dưỡng họ” (Lễ ký 24). Mạnh
Tử tiếp tục một cách cơ bản tư tưởng Nho giáo liên quan đến kính trọng cha
mẹ, khi nói: “Điều lớn lao nhất một người
con có bổn phận có thể làm là kính trọng cha mẹ” (Mạnh Tử 9.4). “Một người con đại hiếu (大孝) thương kính cha mẹ
mình suốt đời” (Mạnh Tử 9.1). Theo Nho
giáo, trong thực hành hiếu, việc nuôi dưỡng cha mẹ mình là yêu cầu cơ bản và
kính trọng cha mẹ là hình thức cao nhất. Do đó, “Trong khi hầu hạ cha mẹ, có thể nhẹ nhàng khuyên can họ. Tuy nhiên, mỗi
khi họ không nghe theo lời khuyên can thì cũng nên cung kính mà không chống đối
họ, và theo sự chỉ dạy của họ mà không oán giận” (Luận ngữ 4.17). Tầm quan
trọng của kính trọng trong thực hành hiếu của Nho giáo được biểu thị rõ trong
những trích dẫn này.
Mặc dù kính trọng là then chốt của khái niệm hiếu trong Nho
giáo, trong thực tế người ta nên thực hiện nó phù hợp với lễ (禮). Vì vậy trong Luận ngữ,
khi Mạnh Ý Tử hỏi Khổng Tử về hiếu, Khổng Tử nói: “Không phải là không vâng lời”. Phan Trì xin Khổng Tử giảng giải rõ
điều này và Khổng Tử bảo ông: “Khi cha mẹ
còn sống thì phụng dưỡng hợp với lễ; khi cha mẹ qua đời thì tống tang cho hợp lễ,
cúng tế họ hợp với lễ” (Luận ngữ 2.5). Nói cách khác, trong việc thực hành
hiếu, người ta nên theo lễ. Nhưng lễ là gì ở trong Nho giáo? Trong Hiếu kinh, Khổng Tử nói:
“Lễ chỉ là
một vấn đề của kính trọng (敬). Theo đó, người con
vui trong việc kính trọng cha mình; người em thấy vui trong việc kính trọng anh
mình; quan lại thấy vui trong việc kính trọng vua; và tất cả dân chúng thấy vui
trong việc kính trọng hoàng đế. Những người được kính trọng thì ít, nhưng người
thấy vui trong việc thể hiện sự kính trọng này thì vô số. Đây là những gì được
gọi là đạo (道)” (Hiếu kinh 12).
Lại, Lễ ký cũng diễn tả:
“Chúng là những luật tắc đúng đắn giúp
xác định họ hàng thân hay sơ; giải quyết những điểm gây nên hiềm nghi; phân biệt
chỗ giống và khác nhau; và phân biệt rõ ràng những gì đúng và những gì sai” (Lễ
ký 1.6).
Theo những
luật tắc đó, ta không nên (tìm cách) làm vui lòng người khác theo một cách thức
không đúng đắn, cũng không lãng phí lời nói. Theo chúng, ta không vượt qua giới
hạn được quy định, cũng không xâm phạm hay khinh thường người khác” (Lễ ký 1.7).
Từ thảo luận ở trên, rõ ràng là cả hiếu và lễ lấy sự kính trọng
làm then chốt. Hiếu là tình cảm tự nhiên của một con người, trong khi lễ là luật
lệ và mô thức cho việc thực hành nó. Trong Luận
ngữ, Tể Ngã đã hỏi Khổng Tử về ba năm cử tang cha mẹ, trong khi cho rằng một
năm là đủ lâu rồi:
“Nếu người
quân tử không thực hành lễ trong ba năm, lễ nghi chắc chắn sẽ đổ nát; nếu ông
ta không thực hành nhạc trong ba năm, nhạc chắc chắn sẽ băng hoại. Sau thời
gian một năm, lúa cũ đã được dùng hết, trong khi lúa mới đã chín, và bốn loại
bùi nhùi khác nhau tất cả đã được dùi để nhen lửa. Một năm chắc đã đủ lâu rồi.
Khổng Tử
nói:
Điều này
cho thấy Tể Ngã là người bất nhân! Một đứa trẻ hoàn toàn nhờ vào sự chăm sóc của
cha mẹ nó trong ba năm đầu – đây là tại sao thời gian ba năm cử tang là thực
hành phổ biến khắp thiên hạ. Tể Ngã có nhận được sự chăm sóc của cha mẹ nó trong
ba năm hay không?” (Luận ngữ 17.21).
Từ đối thoại này, rõ ràng rằng theo tư tưởng Nho giáo sơ kỳ, hiếu
là một tình cảm tự nhiên của một người con đối với cha mẹ. Hiếu kinh định rõ việc thực hành hiếu theo năm cách sau:
“Khổng Tử
nói: ‘Con cái có hiếu thì trong khi hầu hạ cha mẹ trong đời sống hàng ngày cần
thể hiện sự kính trọng (敬), trong khi phục vụ những
nhu cầu và mong muốn của cha mẹ thì cố gắng mang đến cho họ niềm vui (樂), trong khi chăm sóc
cha mẹ lúc bệnh đau thì thể hiện sự lo âu (憂), trong lúc cử tang cho
họ thì thể hiện sự đau buồn (哀), và trong lúc cúng tế
họ thì thể hiện sự đoan nghiêm (嚴). Khi chuẩn bị đủ năm
điều này thì mới có thể phụng sự cha mẹ mình’” (Hiếu kinh 10).
Phật giáo cũng dạy sự kính trọng đối với cha mẹ. Kinh Sabrahma thuộc Tăng chi bộ viết:
“Này các Tỳ-kheo,
những gia đình nào mà ở đó con cái kính lễ cha mẹ thì được sánh ngang với Phạm
thiên (Brahmā). Những gia đình nào mà ở đó con cái kính lễ cha mẹ thì sanh
ngang với những bậc thầy xưa. Này các Tỳ-kheo, những gia đình nào mà ở đó con
cái kính trọng cha mẹ thì xứng đáng được cúng dường. Này các Tỳ-kheo, ‘Phạm
Thiên’ là từ dành cho cha mẹ. Này các Tỳ-kheo, ‘những bậc thầy xưa’ là từ dành
cho cha mẹ. Này các Tỳ-kheo, ‘xứng đáng được cúng dường’ là từ dành cho cha mẹ.
Vì sao vậy? Bởi vì cha mẹ làm nhiều cho con cái, nuôi nấng, giáo dưỡng và giới
thiệu họ vào đời”.
Trước hết, cha mẹ được kính trọng như Phạm thiên, vua của tất cả
chư thiên. Theo Bà-la-môn giáo, con người được Phạm thiên tạo ra. Ở đây Đức Phật
nói rằng nếu một người kính trọng Phạm Thiện như là đấng sáng tạo loài người,
thì tốt hơn nên kính trọng cha mẹ mình bởi vì cha mẹ là đấng sáng tạo thật sự của
họ. Thứ hai, cha mẹ được kính trọng như những vị tiên sư vì họ giáo dưỡng con
cái từ thời điểm con cái mới chào đời. Thứ ba, cha mẹ được kính trọng như “xứng
đáng cúng dường” vì đã cấp dưỡng những nhu cầu cơ bản cho con cái.
Kính trọng đối với cha mẹ cũng được thảo luận ở trong kinh Mahāyañña của Tăng chi bộ, mà ở đó chúng ta tìm thấy một đoạn đối thoại giữa Đức
Phật và một vị Bà-la-môn thờ lửa, về cách thực hiện một tế lễ mà nó bao gồm việc
sát hại nhiều bò và những thú vật khác. Đức Phật khuyên vị Bà-la-môn thờ lửa, bằng
thuật ngữ hiến tế, rằng có ba loại lửa cần nên được tôn kính: cha mẹ là ngọn lửa
đầu tiên; vợ con, người làm và những người phụ thuộc là thứ hai; ngọn lửa thứ
ba là tượng trưng cho những người tu đạo mà họ hoặc chứng đắc A-la-hán quả hoặc
đã dự vào dòng thánh, tu tập đoạn trừ những yếu tố tâm tiêu cực. Đức Phật nói với
Bà-la-môn: “Ba ngọn lửa này, khi được tôn
kính, chắc hẳn mang lại phúc lạc lớn nhất”. Ở đây cha mẹ là đầu tiên.
Hai bản kinh này minh chứng sư kính trọng đối với cha mẹ trong
giáo pháp Phật giáo.
3) Bất hiếu
là một trong năm trọng tội
Cả Phật giáo và Nho giáo xem bất hiếu là một trong năm trọng tội.
Nho giáo xem bất hiếu là điều thứ nhất trong năm trọng tội. Như Hiếu kinh nói:
“Khổng Tử nói: ‘Năm hình phạt được áp dụng cho ba ngàn tội
phạm, nhưng không có tội nào trong đó nghiêm trọng hơn tội bất hiếu’” (Hiếu
kinh 11).
Vào thời nhà Hán, tư tưởng “trị quốc bằng việc sử dụng hiếu” được
nghĩ ra và áp dụng; bất hiếu được xem như là một trong những trọng tội. Theo Xuân thu quyết ngục (春秋決獄), “Người mà đánh đập cha mẹ
sẽ bị chém đầu”. Đây là luật liên quan đến thực hành hiếu đạo ở thời nhà
Hán (206 tr.TL – 220 TL). Vì vậy từ thời Tam quốc đến thời Nam–Bắc triều, những
nội dung của hiếu trở nên có hệ thống và cụ thể hơn. Chính trong suốt thời Bắc
Tề (550-577) mà “mười trọng tội” được thiết định và viết thành luật; bất hiếu
là tội thứ tám. Theo luật của thời Lưu Tống (420-479), “Người nào bất hiếu đối với cha mẹ sẽ bị đánh đập và treo ngoài chợ”
(The Biography of Gu Kaizi in the Song Shu, the History of the Liu Song
Dynasty). Vào thời nhà Đường, “Mười điều
ác xuất hiện ở trong những quyển sách luật và bất hiếu là tội thứ bảy”. Tùy thư (隋書, Lịch sử của triều Tùy) nói, “Lại nữa ‘mười điều ác’ được thiết định… Điều thứ bảy là bất hiếu”.
Mục “mười điều ác” có mặt trong những quyển sách luật từ đời Đường mãi cho đến
cuối thời nhà Thanh và bất hiếu là một trong mười điều ác. Hệ thống luật đời Đường
là hệ thống hoàn bị nhất. Hình phạt cho sự bất hiếu là: “Người nào chửi rủa cha mẹ và ông bà mình sẽ bị treo cổ, người nào đánh
đập họ sẽ bị chặt đầu”. “Những ai tố cáo ông bà cha mẹ của mình (vì bất kỳ việc
làm xấu nào) sẽ bị treo cổ”.
Theo giáo pháp Phật giáo, giết mẹ cha là hai tội đầu trong năm tội
nặng nhất. Kinh Parikuppa thuộc Tăng chi bộ viết:
“Này các Tỳ-kheo,
năm nghịch tội này đưa đến đọa xứ, đưa đến địa ngục, không có thể chữa trị. Thế
nào là năm? Ðoạt mạng mẹ, đoạt mạng cha, đoạt mạng A-la-hán, với ác tâm làm Như
Lai chảy máu, phá hòa hợp Tăng. Thực sự, này các Tỳ-kheo, năm pháp ngũ nghịch
này đưa đến đọa xứ, đưa đến địa ngục, không thể chữa trị”.
Theo bài kinh này, người nào giết mẹ hoặc cha của mình là phạm tội
nghiệp nặng nhất do đó vị ấy sẽ đọa vào địa ngục. Điều này cho thấy tầm quan trọng
của hiếu đạo trong đạo đức Phật giáo.
Bản dịch Hán ngữ Tăng nhất
A-hàm (Ekottarāgama) cũng cho chúng ta biết rằng có 11 loại người không thể
đạt đạo; một trong số họ là giết cha mẹ của mình. Theo Luật tạng của những trường
phái khác nhau, người nào giết cha mẹ của mình sẽ không được phép gia nhập Tăng
đoàn, và nếu vị ấy đã gia nhập thì nên tẩn xuất.
4) Phổ quát
việc thực hành hiếu đạo
Cả Phật giáo và Nho giáo đã phổ quát hóa việc thực hành hiếu đạo,
xem đó như là luật phổ quát. Theo Luận ngữ,
hiếu là một tình cảm tự nhiên của người con đối với cha mẹ của mình, nhưng quan
điểm này đã được phát triển trong Lễ ký
và nó khái quát hóa luân lý này như một luật phổ quát, là đạo thường của trời
và nghĩa của đất. Tất cả hành xử con người được nối kết với hiếu, từ chiến
tranh đến đời sống hàng ngày: trong việc phục vụ người trị vì, trong giao tiếp
với bạn bè. Nó bao gồm tất cả mọi phương diện của đời sống con người.
“Tăng Tử nói: ‘Thân thể này là do cha mẹ của ta truyền lại;
vậy ai dám bất kính trong việc sử dụng di thể của mẹ cha? Nếu một người hành xử
không đoan chính thì người này không phải là hiếu; nếu một người phục vụ vua mà
không trung thành thì người này không phải là hiếu; nếu trong việc thực thi những
bổn phận của một vị quan mà không kính thì người này không phải là hiếu; nếu với
bạn bè mà không chân thành thì người này không phải là hiếu; nếu ở nơi chiến trận
mà không dũng cảm thì người này không phải là hiếu. Nếu không làm được năm điều
này thì cha mẹ sẽ bị ô nhục; vậy dám không kính chúng sao?’” (Lễ ký 24.26).
Lễ ký khái quát thêm luân lý này: “Đốn
một cái cây đơn độc, hay giết một con thú đáng thương, không phải là lý do
chính đáng, là trái với hiếu”. (Lễ ký 24.28). Như vậy hiếu được xem như một
chân lý phổ quát.
“Tăng Tử
nói: ‘Thiết lập hiếu, và nó sẽ
lấp đầy trời đất; phổ biến nó ra khắp bốn biển,truyền nó lại cho đời sau, và từ
sáng đến tối nó sẽ được tuân giữ; đẩy nó vào biển Đông, biển Tây, biển Nam và
biển Bắc, và nó sẽ là luật dành cho con người. Kinh Thi nói: ‘Từ Đông sang Tây,
từ Nam đến Bắc, không ai không tuân theo’” (Lễ ký 24.27).
Phổ quát hóa hiếu đạo của Phật giáo thì khác với Nho giáo. Phật
giáo xem mọi phụng sự và giúp đỡ chúng sanh là hiếu. Điều này là bởi Phật giáo
không nghĩ cái chết là sự chấm dứt đời sống mà là một sự thay đổi hình thức. Một
người có thể tái sanh vào cõi trời để thụ hưởng đời sống sung sướng hay sanh
vào địa ngục chịu nếm trải khổ đau. Chúng sanh lang thang trong cõi luân hồi
(samsāra) từ vô thỉ đến nay, vì vậy tất cả những chúng sanh khác có thể đã là
cha mẹ của ta ở trong những kiếp quá khứ. Do đó ta nên thực hành hiếu đối với tất
cả chúng sanh. Đức Phật dạy những đệ của của Ngài trong kinh Mātu thuộc Tương ưng bộ (Samyuttanikāya):
“Này các Tỳ-kheo,
vòng luân hồi này là vô thỉ… Này các Tỳ-kheo, nó là không dễ để tìm thấy một
chúng sanh ở trong thời gian dài này trước đây không phải là mẹ ta… cha ta… chị
ta… con trai ta… con gái ta. Vì lý do gì? Này các Tỳ-kheo, bởi vì vòng luân hồi
này là vô thỉ…”.
5. Báo ứng của
việc thực hành hiếu đạo
Cả Phật giáo và Nho giáo dạy những báo ứng mà chư thiên hay trời
đem lại cho người hiếu đạo. Nho giáo cho rằng việc làm hiếu đạo của một người sẽ
được trời đền đáp. Trong khi Phật giáo dạy rằng chư thiên sẽ ủng hộ những việc
làm hiếu đạo của con người.
Hiếu kinh nói: “Sự thực, hiếu là đạo
thường (經) của trời, là nghĩa (義) của đất và là đức hạnh
(行) của con người” (Hiếu kinh 7). Vì vậy, một cách tự nhiên, trời sẽ ủng hộ những
hành động hiếu của con người. Theo Hiếu
kinh:
“Khi còn sống
cha mẹ ta có thể hưởng được những sự an nhàn; khi qua đời linh hồn họ có thể hưởng
được sự cúng tế. Như vậy thế giới này đi đến hòa bình, những tai họa thiên
nhiên không xảy ra, họa hoạn và bạo loạn không sanh khởi. Đó là cách những vị
minh vương sử dụng hiếu để cai trị thiên hạ. Kinh Thi nói: ‘Khi có đức lớn, các
nước ở bốn phương đều thuận theo’” (Hiếu kinh
8).
Những gì Nho giáo nhấn mạnh ở đây là rằng hòa bình sẽ lan khắp
khi người ta có đạo đức. Nhưng Hiếu kinh xa
hơn giải thích điều này như là sự ủng hộ của thần linh.
“Trước đây
những vị minh vương (明王) phụng dưỡng cha của họ
với hiếu, và do đó thờ trời với sự sáng suốt (明). Những vị vua phụng dưỡng mẹ của họ với hiếu, và do đó thờ đất
với sự sâu sát (察). Người lớn và trẻ nhỏ
hòa thuận với nhau, và do đó cả người trên và kẻ dưới có tôn ti và khéo trị.
Khi các vị vua sáng rõ và sâu sát trong việc phục vụ của họ đối với trời và đất,
thần linh sẽ ban phước cho họ.
Như vậy,
ngay cả thiên tử cũng phải thể hiện sự tôn kính, và phải thuận theo người. Ta tỏ
lòng tôn kính ở nơi tông miếu (宗 廟) bởi vì ta không quên
cha mẹ của mình. Ta tu dưỡng tâm tính và cẩn trọng trong hạnh kiểm bởi ta sợ
làm hổ nhục tổ tiên.
Khi ở tại
tông miếu, vua thể hiện sự tôn kính, khiến quỷ thần hiện ra. Khi hiếu và để (悌) có mặt, ta kết thông
với thần. Điều này dẫn đến sự chói sáng khắp thế gian, không nơi nào là không
thông suốt” (Hiếu kinh 16).
Vua Huyền Tông nhà Đường đã giải thích câu trích dẫn “thần minh
chương hỉ” (神 明 彰 矣) ở trong Hiếu kinh là
“Khi trời và đất được thờ với trí thông
minh và suy xét đúng đắn, sự anh minh của thần linh sẽ biết sự đứng đắn [của
con người] và ban phước lành và bảo hộ họ. Như người ta nói: ‘thể hiện quyền
năng ban ơn của họ’”. Hình Bỉnh (邢昺 932-1010) đã giải thích điều này trong luận giải của mình về Hiếu kinh là “Chương này giải thích sự ảnh hướng của hiếu và sự báo ứng đối với nó”.
Như vậy từ Hiếu kinh đến vua Đường
Huyền Tông và đến Hình Bỉnh, tất cả giải thích rằng hiếu sẽ tác động đến thần
linh, và họ sẽ ủng hộ người thực hành nó. Do đó trong những sách sử chính thống
Trung Quốc có những chương đặc biệt dành ghi chép những câu chuyện về việc báo ứng
đối với những người thực hành hiếu đạo. Những câu chuyện hư cấu nổi tiếng là
chuyện về người con trai hiếu thảo Quách Cự (郭 巨), người bởi vì nghèo khó đã chôn con trai của mình để nuôi mẹ; và
ông được trời ban thưởng vàng. Vương Tường (王 祥), để bắt một ít cá cho mẹ mình, đã sử dụng thân thể của mình để
làm tan băng; bởi vì lòng hiếu thảo của ông băng đã tan và hai con cá đã nhảy
lên như là sự ban tặng của trời.
Phật giáo có một quan điểm tương tự. Tôn kính cha mẹ được xem
như là nguyên tắc đâu tiên của phẩm hạnh đạo đức, là pháp, con đường mà vạn vật
nên là. Nếu cha mẹ không được tôn kính, những điều xấu ác sẽ xảy ra, chẳng hạn
như chiến tranh. Quan điểm này được tìm thấy ở nhiều nơi trong kinh Tăng chi Pāli cũng như ở trong những bản
dịch Hán ngữ của Tạp A-hàm, Trường A-hàm
và Tăng nhất A-hàm.
Những bản kinh này nói rằng vào ngày thứ tám, ngày thứ 14 và 15
của mỗi tháng, Tứ Đại Thiên Vương cùng con trai và tùy tùng của họ đi dạo khắp
thế gian này để xem xét dân chúng có kính trọng cha mẹ họ hay không, có kính trọng
các ẩn sĩ và Bà-la-môn, có thể hiện sự kính trọng đối với những vị niên trưởng
của dòng tộc và có làm những việc thiện hay không. Sau đó Tứ Đại Thiên Vương
trình báo với người cai trị chư thiên của cõi trời Tam thập tam khi họ ngồi
trong Chánh pháp đường. Nếu việc trình báo tiêu cực, chư thiên của cõi trời Tam
thập tam không hài lòng, nói: “Quả thật,
thưa chư vị, chư thiên sẽ suy giảm và A-tu-la sẽ tăng thịnh”. Nhưng nếu Tứ
Đại Thiên Vương tường thuật với những lời tích cực thì chư thiên của cõi trời
Tam thập tam sẽ hoan hỷ, nói: “Quả thực,
thưa chư vị, chư thiên sẽ tăng thịnh và A-tu-la sẽ suy giảm”.
Trong kinh điển Phật giáo, A-tu-la được biết là thường đánh nhau
với chư thiên. Theo từ điển Pali-English
Dictionary: “Việc đánh nhau giữa chư
thiên và A-tu-la cũng được phản ánh ở trong những cuốn sách cổ nhất của kinh tạng
Pāli và xuất hiện trong sự mô tả đồng nhất dưới tựa đề ‘devāsura-sangāma’ ở nhiều
nơi”. Được biết, chư thiên tượng trưng cho sự chính trực, như đoạn kinh Pāli
cho chúng ta biết rằng ngay cả hội đường của chư thiên được đặt tên là
Sudhammā, Chánh pháp đường: “Tứ Đại Thiên
Vương tường trình vấn đề đến chư thiên của cõi trời Tam thập tam khi họ hội họp
trong Chánh pháp đường (Sudhammā)…”. Điều này được hỗ trợ bởi bản dịch Hán
ngữ của Tạp A-hàm, Trường A-hàm và Tăng nhất A-hàm, mà theo đó chư thiên hội họp trong Chánh pháp đường
để thảo luận những vấn đề sau khi họ xem xét thế gian. Vị vậy đoạn trích ở trên
hàm ý rằng nếu dân chúng không kính trọng cha mẹ, các Sa-môn và Bà-la-môn, thì
sẽ có thêm sự giao chiến, bởi vì các A-tu-la thích đánh nhau, trong khi chư
thiên thích hòa bình. Vì vậy theo đoạn kinh này, việc con người kính trọng cha
mẹ hay không là gốc của việc thực hành đạo đức mà nó ảnh hưởng trực tiếp đến sự
yên bình của thế gian.
Kinh Cakkavatti Sīhanāda
được tìm thấy trong Trường bộ kinh
Pāli và cả ở trong bản dịch Hán ngữ Trường
A-hàm và Trung A-hàm, đề cập rằng
việc cha mẹ có được kính trọng hay không, là một trong những yếu tố đưa đến việc
tăng thịnh hay suy giảm của tuổi thọ con người. Bản kinh này nói rằng khi tuổi
thọ của con người suy giảm đến 250 tuổi, những điều sau sẽ gia tăng: thiếu hiếu
kính với cha mẹ, thiếu kính lễ những người tu hành, thiếu tôn kính người đứng đầu
gia tộc. Vì vậy thọ mạng giảm xuống còn một trăm tuổi.
Khi thọ mạng của con người chỉ con mười tuổi, “hại tâm rất mãnh liệt, sân tâm rất mãnh liệt,
ác ý rất mãnh liệt, sát hại tâm rất mãnh liệt ngay ở nơi người mẹ đối với con,
con đối với mẹ, nơi người cha đối với con, con đối với cha”.v.v… Những gì
người ta làm chỉ là mười ác nghiệp; mười thiện nghiệp không được nghe đến.
Ngược lại, thọ mạng của con người gia tăng khi họ kính trọng cha
mẹ, các tu sĩ, người đứng đầu gia tộc. Bản Pāli nói rằng điều này xảy ra khi thọ
mạng con người là 20 tuổi, và bởi vì điều thiện mà họ làm, họ sẽ gia tăng thọ mạng;
kết quả, con trai của họ sẽ sống 40 năm. Như vậy, hiếu thậm chí ảnh hướng đến trật
tự của tự nhiên.
Những ví dụ này cho thấy rằng Phật giáo cũng nói đến sự ủng hộ của
chư thiên đối với việc thực hành hiếu đạo, nhưng điều này gần với những quan điểm
được tìm thấy trong Luận ngữ và khác
nhiều với Lễ ký.
Những khác
nhau trong Phật giáo và Nho giáo
Vì Phật giáo và Nho giáo khác nhau trong triết học của họ về đời
sống, nên có bốn điểm khác nhau trong khái niệm và thực hành của họ về hiếu.
Triết học Nho giáo về đời sống nhấn mạnh vào gia đình và những trách nhiệm xã hội
của cá nhân để người ta vừa là một thành viên có hiếu của gia đình và vừa tích
cực tham gia vào phục vụ xã hội; nó nhằm vào tu sửa bản thân, chỉnh đốn gia
đình, lãnh đạo tốt quốc gia và kiến tạo hòa bình ở trong thế gian. Điều này được
mô tả rõ ràng trong sách Đại học (大 學).
“Từ cổ xưa,
những ai muốn phát huy tính thiện khắp thiên hạ thì trước kết phải cai trị tốt
nước mình. Muốn lãnh đạo tốt nước mình thì trước hết họ chỉnh đốn gia đình họ.
Muốn chỉnh đốn gia đình thì trước hết họ tu dưỡng bản thân. Muốn tu dưỡng bản
thân thì trước hết họ tu sửa tâm tính mình. Muốn tu sửa tâm tính thì trước hết
họ tìm cách làm cho ý nghĩ của mình ngay thật. Muốn ý nghĩ của mình ngay thật thì
trước hết họ mở rộng tận cùng hiểu biết của mình. Sự mở rộng hiểu biết ấy nằm ở
nơi việc nghiên tầm sự vật. Sự vật được nghiên tầm thì hiểu biết mới trở nên
hoàn thiện. Hiểu biết của họ hoàn thiện thì ý nghĩ của họ mới ngay thật. Ý nghĩ
của họ ngay thật thì tâm họ mới được tu sửa. Tâm của họ được tu sửa thì bản
thân mới được tu dưỡng. Bản thân được tu dưỡng thì gia đình họ mới được chỉnh đốn.
Gia đình họ được chỉnh đốn thì đất nước họ mới được cai trị đúng đắn, toàn thể
vương quốc mới được thanh bình và phúc lạc” (Đại
học 3).
Như được thảo luận ở trên, hiếu là gốc rễ và nền tảng của đạo đức
Nho giáo và nó là cơ sở cho việc tu thân. Còn mục đích của triết học Phật giáo
về đời sống là chấm dứt khổ đau ngang qua việc giải thoát khỏi thế giới tham dục
và chấp thủ, nhưng điều này không có nghĩa là rời khỏi thế giới vật lý. Do đó
theo giáo pháp Phật giáo, người ta tu bồi đạo đức trước và cuối cùng đạt được sự
giải thoát rốt ráo.
1) Những
cách thức báo ân cha mẹ
Cách thức báo ân cha mẹ khác nhau ở trong Nho giáo và Phật giáo,
khi triết học về đời sống ở trong hai hệ tư tưởng thì khác nhau. Những kinh
sách Nho giáo như Luận ngữ, Lễ ký, Đại đới
lễ ký (大 戴 禮 記), Mạnh Tử và Hiếu kinh… miêu tả chi tiết khái niệm và
thực hành hiếu. Luận ngữ nói: “Khi cha mẹ còn sống, hầu hạ họ theo lễ; khi
cha mẹ qua đời, an táng và cúng tế họ theo lễ” (Luận ngữ 2.5). Đại đới lễ ký nói: “Có ba loại hiếu. Lớn nhất là kính trọng cha mẹ, thứ hai là không làm họ
hổ nhục, và thứ ba là nuôi dưỡng họ.” (Đại đới lễ ký 11.1). Hiếu kinh tóm tắt:
“Con cái có
hiếu thì trong khi hầu hạ cha mẹ trong đời sống hàng ngày cần thể hiện sự kính
trọng (敬), trong khi phục vụ những
nhu cầu và mong muốn của cha mẹ thì cố gắng mang đến cho họ niềm vui (樂), trong khi chăm sóc cha
mẹ lúc bệnh đau thì thể hiện sự lo âu (憂), trong lúc cử tang cho
họ thì thể hiện sự đau buồn (哀), và trong lúc cúng tế
họ thì thể hiện sự đoan nghiêm (嚴). Khi chuẩn bị đủ năm
điều này thì mới có thể phụng sự cha mẹ mình” (Hiếu
kinh 10.1).
Ở đây rõ ràng rằng hiếu được phân thành hai, ba và năm phần.
Nhưng điều này vẫn không bao gồm tất cả mọi khía cạnh của hiếu trong Nho giáo.
Do đó những học giả hiện đại có những phân loại khác nhau. Để cho tiện thảo luận,
tôi sẽ phân hiếu trong Nho giáo thành bảy khía cạnh dưới hai đề mục. Thứ nhất,
khi cha mẹ còn sống, con cái nên (1) kính trọng, (2) làm cho họ hạnh phúc với tất
cả mọi loại phụng dưỡng, không phiền lòng khi họ bệnh, (3) được khuyên là không
được buồn bực. Thứ hai, khi cha mẹ qua đời, (4) tang lễ nên được thực hiện theo
lễ, (5) nghề nghiệp của họ nên được tiếp tục để thanh danh họ được lưu truyền đến
những thế hệ tương lai, (6) giữ thân thể nguyên vẹn, và (7) có con cái nối dõi.
Trong những điều này, từ số 1 đến số 5 được tìm thấy trong Phật
giáo, nhưng số 6 và số 7 thì không.
Bản kinh Phật có tên Sigālovāda
dạy người ta thực hiện năm điều như là sự thực hành hiếu. Một người con nên
chăm sóc cha mẹ bằng việc (1) nuôi dưỡng họ, (2) thực hiện những bổn phận của
mình, (3) giữ truyền thống gia đình, (4) xứng đáng là người thừa kế, và (5) bố
thí để tỏ lòng tôn kính những người thân quá cố. Năm mục này được tìm thấy
trong năm phương diện đầu của Nho giáo, ngoại trừ rằng mục thứ ba được thảo luận
trong kinh khác. Tất nhiên, chúng ta phải thừa nhận rằng miêu tả của Nho giáo về
hiếu thì chi tiết hơn Phật giáo, bởi vì hiếu là nền tảng của giáo thuyết Nho
giáo.
Cả Phật giáo và Nho giáo ủng hộ việc khuyên nhủ cha mẹ như một
cách thức báo ân, nhưng cách để khuyên cha mẹ là khác nhau trong hai trường
phái tư tưởng này. Theo Nho giáo, khi khuyên cha mẹ, một người con nên làm điều
đó một cách nhẹ nhàng với sự kính trọng nhất. Tuy nhiên nếu cha mẹ không nghe,
người con không nên bực tức. Như Luận ngữ
nói:
“Trong khi
hầu hạ cha mẹ, có thể nhẹ nhàng khuyên can họ. Tuy nhiên, mỗi khi cha mẹ không
nghe theo lời khuyên can thì cũng nên cung kính mà không chống đối họ, và theo
sự chỉ dạy của họ mà không oán giận” (Luận ngữ
4.18).
Tuy nhiên, đó là bổn phận tích cực của một người con để khuyên
cha mẹ của mình. Hiếu kinh nói rõ điều
này. Tăng Tử hỏi Khổng Tử: “Con mạo muội
hỏi thầy là con cái có thể được cho là có hiếu chỉ bởi việc vâng theo mệnh lệnh
của cha mẹ họ không?”. Khổng Tử cả giận nói:
“Ông đang
nói gì? Ông đang nói gì? Trước đây khi một vị thiên tử có bảy vị cận thần tranh
luận với mình, cho dù ông không có đạo đức (vô đạo) ông vẫn không mất thiên hạ.
Khi chư hầu có năm triều thần tranh luận với họ, cho dù vô đạo họ vẫn không mất nước. Khi những
vị đại phu có ba hầu thần tranh luận với họ, cho dù vô đạo họ vẫn không mất
nhà. Nếu những quan lại có một người bạn tranh luận với họ, họ vẫn không mất
thanh danh. Nếu một người cha có con tranh luận với mình, ông sẽ không rơi vào
bất nghĩa (不 義). Vì vậy, khi có sự bất
nghĩa, thì con chắc hẳn tránh tranh luận với cha và tôi hầu chắc hẳn tránh
tranh luận với chủ. Do đó, tranh luận là sự đối phó duy nhất đối với sự bất
nghĩa. Vậy có thể nào việc vâng theo mệnh lệnh của cha có thể được xem là hiếu? (Hiếu kinh 15).
Ở đây hoàn toàn rõ ràng rằng nếu một người không khuyên cha mẹ của
mình nếu cha mẹ có khả năng làm điều sai trái, điều đó giống như làm cho họ bất
chính và được xem là bất hiếu. Vì vậy trong Lễ
ký, Khổng Tử nói: “Vâng theo những mệnh
lệnh (của cha mẹ mình) mà không than phiền; nhẹ nhàng tranh luận với họ mà
không mỏi mệt; và không kêu ca than phiền chống lại họ, dù bị họ đánh đập, có
thể được cho là hiếu. Thi kinh nói rằng: ‘Người con hiếu không mệt mỏi trong việc
phục dịch của mình’”. (Lễ ký 30.18).
Phương pháp và thái độ đối với cha mẹ trong việc khuyên họ được
thảo luận chi tiết trong Đại đới lễ ký:
“Đan Cử Lại
hỏi Tăng Tử: ‘Có phương pháp nào trong việc hầu hạ cha mẹ không?’ Tăng Tử nói:
‘Có, thương yêu và kính trọng. Nếu đạo đức của cha mẹ theo hướng tốt, vậy thì
ta nên theo họ. Nếu không, vậy thì ta khuyên họ; nếu lời khuyên không được ghi nhận,
ta nên hành động vì họ. Nếu ta [mù quáng] theo cha mẹ mà không khuyên can hay
phản đối, đó không phải là hiếu, nhưng nếu ta chỉ phản đối mà không theo chỉ bảo
của họ, đó cũng không phải là hiếu. Phản đối của một người con hiếu đạo nên nhằm
cho sự tốt lành chứ không phải cho tranh cãi và gây sự; nếu một sự tranh cãi xảy
ra, nó sẽ gây nên hỗn loạn. [Nếu một người con nghĩ rằng] do lời khuyên của
mình mà cha mẹ trở nên hoàn thiện, có sự an bình; còn [nếu một người con nghĩ rằng]
nhờ lời khuyên của mình cha mẹ trở thành những hiền thánh, sẽ có sự hỗn loạn. Một
người con hiếu đạo không có hạnh phúc riêng tư, vị ấy lo nghĩ về những mối ưu
tư của cha mẹ và vui với niềm hạnh phúc của cha mẹ. Nếu một người con có hiếu
khéo léo thay đổi [cách thức đưa ra lời khuyên của mình], thì cha mẹ của vị ấy
trở nên an ổn. Nếu vị ấy ngồi nghiêm trang như thể ở trong một lễ cúng tế, đứng
thẳng như thể cúng tế, không nói khi không có yêu cầu, và chỉ nói theo mong muốn
của cha mẹ, điều này khiền người ta thành một người có hành xử tốt, nhưng đó
không phải là cách con của một người nên là’” (Đại
đới lễ ký 12.1).
“Nếu cha
hay mẹ có khiếm khuyết, (người con) với sự e dè, thái độ ôn tồn và giọng nói nhẹ
nhàng, nên khuyên nhắc cha mẹ mình. Nếu lời khuyên không hữu hiệu, vị ấy lại
càng tôn kính và hiếu nghĩa hơn; và khi người cha dường như vui vẻ, vị ấy sẽ lập
lại lời khuyên. Nếu người cha không hài lòng với điều này, tốt hơn để ông ấy phạm
tội với người nào đó trong xóm giềng, (khi ấy người con) nên mạnh mẽ than
trách. Nếu người cha giận dữ và bực mình (hơn) và đánh con mình cho đến chảy
máu, người con không nên giận dữ bực tức, mà (vẫn) kính trọng và hiếu kính hơn” (Lễ ký 12.18).
Sự phản đối hay khuyên can của một người con đối với cha của
mình được mô tả chi tiết trong Lễ ký
với những luật lệ. Ví dụ, một người con nên khiêm nhường khuyên cha mẹ với lời
lẽ nhẹ nhàng và diện mạo vui vẻ. Nếu cha mẹ không vui và đánh anh ta đến chảy
máu, người con không nên phẫn uất, mà tăng thêm lòng kính trọng. Trong khi
khuyên nhủ, anh ta không nên tranh cãi với cha mẹ, nếu không nó là điểm khởi đầu
của hỗn loạn. Nếu cha mẹ không chấp nhận lời khuyên, anh ta nên xem cách đưa ra
lời khuyên của mình có sự thiếu sót nào hay không. Lời khuyên này nên được đưa
ra chỉ ba lần; nếu cha mẹ vẫn không nghe, thì ta nên nghe cha mẹ.
Phật giáo có một lời dạy tương tự như vậy về việc khuyên cha mẹ
làm những điều tốt. Trong kinh Kataññu
thuộc Tăng chi bộ, điều này được đề cập:
“Nhưng này
các Tỳ-kheo, ai đối với cha mẹ không có lòng tin, khuyến khích, hướng dẫn an
trú cha mẹ vào lòng tin; đối với mẹ cha theo ác giới, khuyến khích, hướng dẫn,
an trú cha mẹ vào thiện giới; đối với mẹ cha xan tham, khuyến khích, hướng dẫn,
an trú cha mẹ vào bố thí; đối với mẹ cha theo ác trí tuệ, khuyến khích, hướng dẫn,
an trú cha mẹ vào trí tuệ. Cho đến như vậy, này các Tỳ-kheo, là làm đủ và trả
ơn đủ mẹ và cha”.
Bốn cách thức khuyên cha mẹ này được thảo luận chi tiết ở trong
kinh Vyagghapajja:
“Có bốn pháp này, này Byagghapajja, đưa đến
hạnh phúc tương lai, an lạc tương lai cho thiện nam tử. Thế nào là bốn?
Ðầy đủ lòng tin, đầy đủ giới đức, đầy đủ bố
thí, đầy đủ trí tuệ. Và này Byagghapajja, thế nào là đầy đủ lòng tin?
Ở đây, này Byagghapajja, thiện nam tử có lòng tin,
tin tưởng ở sự giác ngộ của Như Lai: ‘Ðây là Thế Tôn... bậc Thiên Nhân sư,
Phật, Thế Tôn’. Này Byagghapajja, đây gọi là đầy đủ lòng tin. Và này
Byagghapajja, thế nào là đầy đủ giới đức?
Ở đây, này Byagghapajja, thiện nam tử từ bỏ
sát sanh... từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu. Này Byagghapajja, đây gọi là đầy
đủ giới đức. Và này Byagghapajja, thế nào là đầy đủ bố thí?
Ở đây, này Byagghapajja, thiện nam tử sống ở
gia đình, với tâm không bị cấu uế, xan tham chi phối, bố thí rộng rãi, với bàn
tay mở rộng, vui thích từ bỏ, sẵn sàng để được yêu cầu, vui thích chia sẻ vật
bố thí. Này Byagghapajja, đây gọi là đầy đủ bố thí. Và này Byagghapajja, thế
nào là đầy đủ trí tuệ?
Ở đây, này Byagghapajja, thiện nam tử có trí
tuệ, thành tựu trí tuệ về sanh diệt, với thánh thể nhập (quyết trạch), chơn
chánh chấm dứt khổ đau. Này Byagghapajja, đây gọi là đầy đủ trí tuệ”.
Theo kinh này, nêu ta có thể khuyên cha mẹ mình theo bốn cách
này bằng một cách thức khéo léo, cha mẹ sẽ có được một đời sống tốt đẹp trong đời
này cũng như ở đời sau. Đây là điều người Phật tử xem là cách báo ân tốt nhất đối
với cha mẹ mình. Kinh Bản sự (本 事/ Itivṛttaka sūtra) do Huyền Trang dịch cũng có một phóng tác của
bản kinh ngắn này mà ở đó cách thức khuyên cha mẹ được mô tả là khéo léo khuyên
bảo và an ủi họ bằng cách làm gương và ca ngợi những việc làm tốt.
Sự khác nhau giữa Phật giáo và Nho giáo trong việc khuyên cha mẹ
là rằng Phật giáo nhấn mạnh việc khuyên cha mẹ làm nhiều việc thiện hơn, ví dụ
như thọ trì năm giới và bố thí, trong khi Nho giáo nhấn mạnh những cách thức
đưa ra lời khuyên. Theo học thuyết nghiệp của Phật giáo, chỉ khi cha mẹ thực hiện
những việc làm thiện thì họ mới có thể hưởng được kết quả tốt trong đời này và
đời sau. Nhưng theo truyền thống Nho giáo, kính trọng là điều tiên quyết, vì vậy
cách thức khuyên trở thành điểm hết sức quan trọng: những cách thức kính trọng
khiến họ hạnh phúc, trong khi những cách thức sai trái khiến họ không hạnh
phúc.
Ngoài ra, cách thức khuyên của Phật giáo thì tích cực và chủ động
hơn trong khi cách thức của Nho giáo thì thụ động hơn. Theo Phật pháp, ta nên
khuyên cha mẹ của mình làm việc thiện trong đời sống hàng ngày trong khi cha mẹ
còn khỏe mạnh để họ có thể hưởng được những quả lành từ việc làm của họ cả
trong đời này và đời sau. Còn theo giáo huấn của Nho giáo, chỉ khi nào cha mẹ
phạm những lỗi lầm thì ta mới khuyên họ.
Nho giáo có thêm hai mục trong thực hành hiếu đạo: giữ thân thể
nguyên vẹn và có người nối dõi. Hai mục này không được thảo luận trong kinh
sách Phật giáo bởi vì ý thức hệ của Phật giáo thì khác. Nếu chúng ta hiểu “giữ
nguyên vẹn thân thể” như là không làm hại thân thể vật lý của mình thì Phật
giáo chủ trương điều ấy, nhưng không phải làm như vậy vì hiếu. Những Phật tử
cho rằng thân thể vật lý nên luôn được gìn giữ để có sức khỏe tốt vì nó là
phương tiện quan trọng cho một Phật tử thực hành Pháp và để thực hiện mục đích
của đời sống. Tuy nhiên, Phật giáo không xem thân thể vật lý như là thứ gì đó
thiêng liêng, đến mức như nó là một tặng phẩm của cha mẹ, như những Nho gia chủ
trương. Kinh Sīhanāda thuộc Tăng chi bộ thậm chí nói: “Ví như, bạch Thế Tôn, có người mang một cái
bát đầy mỡ, có thủng nhiều lỗ, thủng nhiều đường, bị chảy, bị rỉ. Cũng vậy, bạch
Thế Tôn, con mang cái thân này, có thủng nhiều lỗ, có thủng nhiều đường, bị chảy,
bị rỉ”. Do đó một Phật tử được phép hy sinh thân mạng của mình để thực hiện
hành động Bồ-tát cứu giúp chúng sanh. Trong những câu chuyện tiền thân Phật
giáo, chúng ta thấy rằng trong những kiếp quá khứ, Đức Phật Thích Ca là một vị
Bồ-tát và Ngài đã bố thí tay chân cho kẻ khác và thậm chí hy sinh thân mạng cho
những kẻ khác.
Theo học thuyết nghiệp, tư tưởng đạo đức là một trách nhiệm hoàn
toàn cá nhân, vì vậy nó luôn nói về những hành vi và kết quả của chúng đối với
một cá nhân. Nhưng tư tưởng đạo đức Nho giáo là một trách nhiệm gia đình, vì vậy
nó luôn nói về mối liên hệ giữa cha và con. Do đó, theo học thuyết nghiệp Phật
giáo, ta chỉ có thể gặt những kết quả từ những việc làm của chính mình, mà nó
có thể tốt hoặc xấu. Con cái không bao giờ có thể làm điều đó thay cho cha mẹ. Kết
quả là, con cái không có ảnh hưởng trực tiếp đến cha mẹ, mà khuyên họ làm điều
tốt thì hữu ích hơn. Quan điểm có con cái nối dõi không phải là chính yếu của
tư tưởng đạo đức Phật giáo bởi vì nó không liên quan đến cha mẹ và lợi ích của
họ không tùy thuộc vào con cháu.
2) Hiếu đạo
là tiêu chuẩn cao nhất đối lại với nghiệp
Nho giáo xem hiếu là tiêu chuẩn cao nhất mà tất cả mọi thành
viên trong xã hội phải tuân theo, trong khi Phật giáo xem nghiệp là cơ sở của đạo
đức, mặc dù Phật giáo cũng dạy hiếu là phẩm hạnh đạo đức quan trọng nhất. Chính
bởi vì giáo huấn cốt tủy của Nho giáo là luân lý mà nó tập trung vào gia đình,
và hiếu là nền tảng của luân lý gia đình, còn nếu không thì gia đình sẽ không
có nền tảng. Do đó trong Nho giáo chính từ hiếu mà tất cả những giáo huấn đạo đức
được triển khai. Vì vậy hiếu đạo trở thành “Đạo thường của trời và nghĩa của đất”.
Hiếu kinh nói:
“Khổng Tử
nói: ‘Hiếu chính là gốc của đức hạnh, và từ đây giáo dục (教) sinh ra” (Hiếu kinh 1).
“Tăng Tử
thưa: ‘Con xin được hỏi là ở nơi cái đức của thánh nhân (聖人之德) thì có thứ gì vượt
qua hiếu không?’ Khổng Tử đáp: ‘Trong tất cả những sinh vật ở thế gian này, con
người là cao quý nhất. Nơi đức hạnh con người, thì không có gì quan trọng hơn
hiếu’” (Hiếu kinh 9).
“Sự thực,
hiếu là đạo thường của trời, cái nghĩa của đất và cái hạnh của con người” (Hiếu kinh 7).
Một vài học giả xem nhân (仁) là mô thức cao nhất của luân lý Nho giáo. Nhưng khi chúng ta
xem xét khái niệm nhân ở trong những kinh sách Nho giáo sơ kỳ, chúng ta thấy rằng
khái niệm nhân rộng hơn hiếu nhưng nó gộp trong hiếu. Mô thức cao nhất cũng như
gốc rễ của nhân là hiếu. Trong Luận ngữ,
học trò của Khổng Tử là Hữu Nhược (有若) hỏi: “Có phải hiếu và đễ
là cái gốc của nhân không?” (Luận ngữ 1.2). Khổng Tử cũng nói: “Khi người quân tử có chức vị cao giữ trọn đạo
với người thân thì dân chúng phát khởi lòng nhân” (Luận ngữ 8.2). “Một
người thanh niên khi ở trong nhà thì nên hiếu thảo, và khi ra ngoài thì kính trọng
những bậc niên trưởng. Vị ấy nên cẩn trọng mà thành thực. Vị ấy nên yêu thương
tất cả mọi người, và thân cận với người nhân đức” (Hiếu kinh 1.6). “Nhân là đức tính của con người, và hành xử
cao đẹp của nó là trong việc thương kính cha mẹ” (Lễ ký 31.19). Mạnh Tử có quan điểm tương tự và nhấn mạnh
nhiều lần rằng “Yêu thương cha mẹ là
nhân; kính các vị niên trưởng là nghĩa” (Mạnh Tử 13.15). “Nội dung của nhân là hầu hạ cha mẹ; nội
dung của kính là vâng lời những huynh trưởng” (Mạnh Tử 7.27). Từ những trích dẫn trên, rõ ràng rằng hiếu là
gốc rễ của nhân và nhân có hiếu là mô thức cao nhất. Chỉ khi một người yêu
thương cha mẹ của mình thì vị ấy mới có thể mở rộng tình yêu thương này đến với
người khác.
Bởi vì hiếu là mô thức cao nhất của nhân ở trong đạo đức Nho
giáo nên tôn giáo này đã có quan điểm về việc bao che cho nhau giữa cha và con.
Quan điểm này được phát triển thêm đến mức độ rằng việc báo thù vì hiếu thì được
luật cho phép còn báo thù vì những lý do khác thì bị luật cấm. Trong xã hội thế
tục, báo thù vì hiếu không bị kết tội mà còn rất được ca ngợi. Trong lịch sử
Trung Quốc, có những người đã giết kẻ khác để trả thù cho cha của mình và được
các hoàng đế thứ tha. Chúng ta sẽ quay lại vấn đề này sau.
Vào đời Đường, Tông Mật nghĩ rằng “Hiếu là nền tảng của cả Phật giáo và Nho giáo”. Tông Mật tìm sự ủng
hộ cho lời khẳng định của mình trong việc nói rằng “Hiếu được gọi là giới và cũng được gọi là chế ngự” ở trong kinh Phạm võng, mà nó được xem như một bản
kinh về các giới Bồ-tát. Tuy nhiên, kinh Phạm
võng chính nó là một bản văn gây tranh cãi, khi một số học giả cho rằng nó
là kinh ngụy tác. Cho dù nếu bản văn này là một bản dịch từ một bản kinh được
truyền từ Ấn Độ vào, lời nói trên hẳn là một sự tự ý thêm vào. Tôi đã bàn luận
vấn đề này trong một bài viết khác rồi và vì vậy tôi sẽ không thảo luận nó ở
đây nữa. Xem xét nó từ một góc nhìn lịch sử, giải thích của Tông Mật cho thấy
cách hòa giải Phật giáo và Nho giáo của ông, khi ông chủ trương một cách hiểu
bao hàm về hai tôn giáo.
Mặc dù đạo đức là nền tảng của Phật giáo, sự thực hành và trau dồi
của nó bao gồm ba phương diện: đạo đức (giới), thiền định và trí tuệ. Hoàn toàn
rõ ràng rằng đạo đức là đầu tiên. Đạo đức bao gồm tất cả những giới luật chẳng
hạn như năm giới, mười thiện nghiệp, và hiếu, nhưng nghiệp là nền tảng của đạo
đức Phật giáo. Kinh Dhanañjani thuộc Trung bộ nói rằng người ta phải thọ lãnh
kết quả của việc tạo nghiệp xấu ác cho dù người ta làm điều đó vì lợi ích của
cha mẹ.
“- Này
Dhananjani, Ông nghĩ thế nào? Ở đây, có người vì cha mẹ làm các điều phi pháp,
làm các điều bất chánh. Do nhân duyên làm các điều phi pháp, làm các điều bất
chánh, các địa ngục quân kéo người ấy đến địa ngục. Người ấy làm được gì khi
nói: "Tôi vì cha mẹ đã làm các điều phi pháp, đã làm các điều bất chánh.
Chớ có để các địa ngục quân kéo tôi đến địa ngục"? Hay cha mẹ của người ấy
làm được gì khi nói: "Con chúng tôi vì cha mẹ đã làm các điều phi pháp, đã
làm các điều bất chánh. Chớ có để các địa ngục quân kéo nó đến địa ngục"?
- Thưa
không được, Tôn giả Sariputta. Các địa ngục quân vẫn quăng người ấy xuống địa
ngục, dầu người ấy có khóc than.”
Như vậy, nghiệp là nền tảng của đạo đức Phật giáo, mặc dù hiếu
là một lời dạy đạo đức quan trọng.
3) Hiếu như
con đường bổn phận một chiều trái với con đường hỗ tương
Nho giáo nhấn mạnh bổn phận của con cái đối với cha mẹ, trong
khi Phật giáo dạy về sự tương tác lẫn nhau.
Trong Nho giáo, có rất ít hoặc không có sự thảo luận về trách
nhiệm và sự chăm sóc của cha mẹ đối với con cái. Nói cách khác, quyền của con
cái đã không được thừa nhận, vì vậy hiếu là con đường một chiều. Tất nhiên, người
ta có thể biện luận rằng tình cảm tự nhiên và lòng yêu thương của cha mẹ đối với
con cái là luôn có, vì vậy không cần phải nói thêm nữa.
Thực hành hiếu bằng việc tuyệt đối tuân theo quyền uy của cha mẹ
được xem là không lành mạnh. Suốt cuộc đời chấp nhận quyền uy của cha mẹ khiến cả
trẻ em và người trưởng thành gượng gạo khi thể hiện quan điểm riêng của mình,
và điều này dẫn đến sự oán giận cha mẹ và kiềm chế những thất vọng. Chủ nghĩa độc
đoán, như một kết quả, tạo nên sự cứng nhắc, bởi vì người ta không thể bày tỏ bản
thân. Kết quả cuối cùng của nó là kiềm hãm tính sáng tạo; nó dẫn đến chủ nghĩa
bảo thủ ở trong một xã hội, và chủ nghĩa tuân thủ ở mức độ cá nhân.
Không giống như Nho giáo, Phật giáo nhấn mạnh vào sự hỗ tương
trong liên hệ giữa cha mẹ và con cái. Con cái có trách nhiệm nuôi dưỡng và kính
trọng cha mẹ, và đồng thời họ được quyền nhận được sự giáo dục tốt, thừa kế tài
sản gia đình v.v… Vì vậy cả cha mẹ và con cái phải tôn trọng nhau và làm lợi
ích cho nhau. Kinh Sigālovāda dạy rằng
con cái phục vụ cha mẹ theo năm cách và cha mẹ cũng nên chăm sóc con cái theo
năm cách.
“Này Gia chủ
tử, có năm trường hợp, người con phải phụng dưỡng cha mẹ như phương Ðông: ‘Ðược
nuôi dưỡng, tôi sẽ nuôi dưỡng lại cha mẹ; tôi sẽ làm bổn phận đối với cha mẹ;
tôi sẽ gìn giữ gia đình và truyền thống; tôi bảo vệ tài sản thừa tự; tôi sẽ làm
tang lễ khi cha mẹ qua đời’. Này Gia chủ tử, được con phụng dưỡng như phương
Ðông, theo năm cách như vậy, cha mẹ có lòng thương tưởng đến con theo năm cách:
ngăn chận con làm điều ác; khuyến khích con làm điều thiện; dạy con nghề nghiệp,
cưới vợ xứng đáng cho con; đúng thời trao của thừa tự cho con”.
Bản kinh này được tìm thấy cả ở trong văn học Pāli của Nam truyền
và bản dịch Hán ngữ là kinh Śrgālavāda
của Bắc truyền. Sự nhấn mạnh vào sự hỗ tương được tìm thấy trong tất cả các bản.
4) Quyền lực
của cha và đức hạnh của mẹ
Nho giáo nhấn mạnh quyền lực của người cha, trong khi Phật giáo
nói nhiều về những đức hạnh của người mẹ.
Quyền lực của người cha được nhấn mạnh trong Nho giáo và con cái
phải kính trọng và vâng theo mệnh lệnh của người cha. Nhưng Nho giáo ít nói về
việc kính trọng đối với mẹ. Hiếu kinh
của Không Tử nói:
“Nơi hạnh của
con người không có điều gì cao quý hơn hiếu; ở nơi hiếu không có điều gì cao
quý hơn kính trọng cha; ở nơi việc kính trọng cha không có điều gì cao quý hơn
đặt ông ngang với trời. Và Chu Công có thể làm điều này” (Hiếu kinh 9).
“Lấy cách đối
xử với cha mà đối xử với mẹ thì thấy lòng yêu thương ấy giống như nhau. Lấy
cách đối xử với cha mà đối xử với vua thì thấy lòng tôn kính ấy như nhau. Như
vây, người mẹ thì có được yêu thương, vua thì có được tôn kính, còn người cha
thì có được cả hai.
Như vậy,
khi phục vụ vua với lòng hiếu thì gọi là trung (忠). Khi đối xử với người trên với lòng tôn kính thì gọi là thuận
(順). Không đánh mất trung
và thuận khi phục vụ những người trên, người ta có thể có được chức vị và giữ
được sự tế tự. Như vậy, đây là hiếu đạo của kẻ sĩ” (Hiếu kinh 5).
Như vậy người cha thì có cả “yêu thương” và “sự tôn kính”, nhưng
người mẹ thì có nhiều yêu thương hơn tôn kính. Ví dụ, Lễ ký cho chúng ta biết điều đó. Khổng Tử nói: “Do đó một người con có đức đầy đủ thì thờ cha mẹ như thờ trời, và thờ
trời như thờ cha mẹ. Do đó một người con hiếu đạo làm tất cả điều có thể làm
cho bản thân” (Lễ ký 27.13). Ở đây thờ trời là sự tôn kính. Vì vậy Nho giáo
nhấn mạnh quyền lực của người cha.
Hiếu đạo của Nho giáo đã được phát triển với việc nhấn mạnh vào
quyền lực của người cha. Trước hết, vào triều Hán, Đổng Trọng Thư (董 仲 舒) đã đưa ra “tam cương ngũ thường”: mối quan hệ giữa cha và con
trở thành một giềng mối (cương). Đổng Trọng Thư miêu tả “Giềng mối giữa cha và
con” như “người cha là trời của con mình”. Ở đây, người cha được xem như là người
ở trên và người con nên vâng theo những mệnh lệnh của cha mình. Quan điểm này
đã được phát triển và giải thích ở trong Bạch
hổ đường: “Mối quan hệ giữa cha và
con là gì? Người cha là hình mẫu mà qua đó ông dạy con mình, và người con như vậy
tránh được những hậu quả tội lỗi”. Như vậy, mối quan hệ giữa cha và con đã
thay đổi từ một tình yêu thương tự nhiên đến một mối quan hệ quyền lực. Hiếu đạo
Nho giáo đi đến chỗ bất hợp lý khi sự vâng lời tuyệt đối của một người con đối
với cha mình lên đến tột điểm ở trong lời nói như “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung. Phụ xử tử vong, tử bất vong bất
hiếu”.
Ngược lại, Phật giáo nhấn mạnh lòng đại bi và đức hạnh của cha mẹ,
đặc biệt là đức hạnh của người mẹ. Điều này rõ ràng từ những bản kinh Phật giáo
sơ kỳ.
Kinh Tương ưng nói, “Mẹ chính là người bạn của gia đình mình”.
Bản dịch Hán ngữ ngắn hơn của Tạp A-hàm
nói, “Ở trong nhà, mẹ là người yêu quý nhất”.
Trong ngôn ngữ Pāli, mẹ luôn được đặt trước cha (mātā-pitaro) mỗi khi cha mẹ được
đề cập. Người ta cũng được đặt tên theo tên mẹ của họ, chẳng hạn như Sāriputta,
mà nó có nghĩa rằng người con trai của Sāri. Theo Từ điển danh xưng Pāli (Dictionary of Pāli Proper Names), cha của
Sāriputta là một vị Bà-la-môn có tên là Vanganta và mẹ của ngài là Rūpasāri.
Chính bởi vì tên mẹ của ngài mà ngài được gọi là Sāriputta.
Bản dịch Hán ngữ kinh Mahāparinirvāna
của Dharmaksema vào năm 421 cũng nói về đức hạnh của người mẹ:
“Giống như
người con dần đang trưởng thành và nghĩ: “Đây là bác sĩ, người biết rõ nhất về
đơn thuốc và thuốc. Khi ta còn ở trong bào thai, ông cho mẹ của ta thuốc. Nhờ vậy,
mẹ ta được bình an, và do bởi những yếu tố gián tiếp này, ta thoát khỏi hiểm
nguy. Ôi, thật khủng khiếp làm sao nỗi đau đớn lớn lao mà mẹ ta phải chịu đựng.
Mười tháng mẹ bảo bọc và cưu mang ta. Sau khi sinh ta, mẹ chăm sóc để ta không
quá nóng hay quá lạnh, và cân chừng việc đại tiểu tiện của ta; mẹ cho ta bú mớm
và cho ta ăn. Vì tất cả điều này, ta phải báo đáp lại những gì mà ta nợ mẹ, quan
tâm đến những cảm xúc của mẹ, vâng lời và hầu cận mẹ”.
Ở đây đau đớn và khổ nhọc của một người mẹ trong việc sinh nở và
nuôi dưỡng con mình được đề cập đặc biệt. Kinh Đại thừa bổn sinh tâm địa quán (大乘本生心地觀經) do Bát Nhã (般若, Prajñā) dịch, có một chương về hiếu và đoạn kết nó tóm tắt về mười đức
hạnh của một người mẹ.
“Bởi vì điều
này, một người mẹ có mười hạnh: thứ nhất, hạnh của quả đất lớn, vì người mẹ
mang con trong bụng mình; thứ hai, hạnh sinh nở, vì người mẹ chịu đau đớn vô
cùng trong việc sinh nở; thứ ba, hạnh cưu mang, vì người mẹ chăm sóc con cái bằng
đôi tay của mình; thứ tư, hạnh nuôi dưỡng, vì người mẹ cung cấp cho con mình vật
dụng theo các mùa; thứ năm, hạnh khôn ngoan, vì người mẹ chăm sóc con mình một
cách khéo léo bằng sự khôn ngoan; thứ sáu, hạnh trang sức, vì người mẹ trang sức
cho con mình với những đồ trang sức đẹp; thứ bảy, hạnh nương tựa, vì người mẹ bảo
vệ con mình bằng đôi tay; thứ tám, hạnh dạy dỗ, vì người mẹ chỉ dạy cho con
mình một cách khéo léo; thứ chín; hạnh khuyên bảo, vì người mẹ bằng lời nói
khéo léo khuyên con mình phòng tránh những việc làm xấu; và mười, hạnh thừa kế,
vì người mẹ giao phó cho con mình tài sản của gia đình”.
Những Phật tử Trung Quốc đã sáng tác bản văn nỗi tiếng Phụ mẫu ân trọng kinh (父母恩重經) bằng việc
tiếp thu những quan điểm và tư tưởng được thảo luận trong những bản kinh trên,
và chuyển thể lại bản dịch Phụ mẫu ân trọng
nan báo kinh (父母恩重難報經) do An Thế Cao dịch. Bản văn này được tìm thấy ở tập 85 của ấn
bản Taisho. Nó tập trung vào việc miêu tả mười hạnh của một người mẹ. Về sau có
nhiều sự sửa đổi và bổ sung và nó trở thành một trong những bản văn Phật giáo
phổ biến nhất ở xã hội Trung Quốc.
4. Ba khía
cạnh đặc biệt ở trong hiếu của Nho giáo
Có ba đặc điểm của khái niệm hiếu Nho giáo mà chúng không tìm thấy
trong Phật giáo. Đầu tiên là hàm ý chính trị mạnh mẽ, thứ hai là sự bao che cho
nhau, và thứ ba là báo thù cho cha mẹ.
1) Hàm ý
chính trị mạnh mẽ
Hiếu của Nho giáo có một hàm ý chính trị rõ ràng. Khi hiếu được
áp dụng cho những người cai trị thì nó được gọi là trung. Hiếu kinh có một chương đặc biệt có tên gọi là “Hiếu trị” (孝治) mà nó thảo luận về sự nối kết giữa hiếu và chính trị và nhấn mạnh
chức năng chính trị của nó.
“Khổng Tử
nói: ‘Xưa kia các vị minh vương sử dụng đạo hiếu mà làm cho thiên hạ bình trị.
Họ không dám xem thường các kẻ bề tôi của nước nhỏ, chứ đừng nói là đối với các
công, hầu, bá, tử, nam của các nước ấy. Nhờ vậy mà vua có được sự yêu mến của họ,
khiến họ thờ phụng cả đến vua các đời trước nữa. Người biết trị nước không dám ức
hiếp những người không vợ không chồng, đừng nói là ức hiếp sĩ dân; nhờ vậy mà
được lòng trăm họ, khiến họ thờ phụng cả đến vua đời trước nữa. Người điều khiển
gia đình không dám xúc phạm những người hầu hạ, đừng nói là xúc phạm vợ con
mình; nhờ vậy có được sự yêu mến của người trong nhà khiến họ thờ phụng ông bà
cha mẹ mình. Cho nên, lúc cha mẹ còn sống thì an ổn và khi qua đời thì hương hồn
có thể hưởng được sự cúng tế. Như vậy thiên hạ yên bình, những tai họa tự nhiên
không xảy ra, bạo loạn và họa hoạn không sinh khởi. Đó là cách những vị minh
vương dùng hiếu để trị thiên hạ. Kinh Thi nói: Khi có đức lớn, các nước ở bốn
phương đều thuận theo” (Hiếu kinh 8).
Như vậy, “Thiên hạ được
yên bình và hòa hợp lan khắp, tai họa sẽ không xuất hiện, và bạo loạn và họa hoạn
sẽ không sinh khởi” nếu đất nước được cai trị bởi những vị vua có hiếu.
Chính bởi điều này hiếu là gốc của nhân (仁), và nếu nhân được thiết lập thì đại đạo có thể lan tỏa. Theo Luận ngữ:
“Hữu Tử
nói: ‘Người có nết hiếu đễ thì không ai dám coi thường người trên; và không hề
có trường hợp người không dám xúc phạm người trên lại dám làm loạn. Người quân
tử chăm lo vào cái gốc. Mỗi khi gốc rễ được thiết lập vững chắc thì đạo sẽ phát
triển. Hiếu, đễ hình thành nên gốc rễ của đức nhân chăng?” (Luận ngữ 1.2)
Vì vậy hiếu là gốc của nhân và hiếu nên bắt đầu với người cai trị,
và chỉ khi những người cai trị kính trọng cha mẹ của mình thì người khác sẽ
theo họ và không có ai bất kính cha mẹ của mình. Vì vậy Hiếu kinh nói, “Người mà yêu
thương cha mẹ của mình thì không dám làm điều xấu với người khác; người mà kính
cha mẹ mình thì không dám khinh thường người khác. Thương yêu và kính trọng hết
mức trong việc phụng dưỡng cha mẹ, và mang đức hạnh này phổ rộng đến dân chúng,
thành luật định khắp bốn biển. Đây chính là hiếu đạo của thiên tử” (Hiếu
kinh 2). Chính bằng cách này mà toàn thế gian trở nên yên bình. Còn đối với kẻ
sĩ:
“Vì vậy,
đem lòng hiếu mà thờ vua thì gọi là trung; đem lòng kính mà đối với người trên
thì gọi là thuận. Với trung và thuận vững chắc trong việc thờ những người trên,
họ có thể giữ được địa vị và giữ được sự tế tự. Như vậy là hiếu của kẻ sĩ” (Hiếu kinh 5).
Do đó, theo Nho giáo, “Có
một sự tương hợp cơ bản giữa một quan lại trung thành trong việc thờ vua và một
người con hiếu trong việc thờ cha mẹ” (Lễ ký 25.2). Trong Hiếu kinh, Khổng Tử nói:
“Chính vì
người quân tử hiếu thảo trong việc phụng sự cha mẹ họ, và vì vậy lòng trung có
thể được chuyển sang vua của mình. Chính vì kính trọng trong việc phụng sự anh
của mình, và vì vậy lòng thuận có thể được chuyển sang những người lớn tuổi
hơn. Và chính bởi họ giữ được đời sống gia đình đúng đắn, và vì vậy khả năng
cai quản của họ có thể được chuyển sang địa vị như một quan lại. Như vậy, khi một
người thành công nơi những gì vị ấy làm ở nhà, danh vị được thiết lập và nó sẽ
được lưu truyền đến đời sau” (Hiếu kinh 14).
Đây là tại sao từ nhà Hán trở đi, chính nhiều vị hoàng đế hoặc
giải thích hoặc viết những luận giải về hiếu, bởi vì hiếu được nối kết mật thiết
với lòng trung thành. Sự thực, những Nho gia đã biện luận rằng hiếu và trung có
tương quan với nhau. Hiếu Võ Đế (孝 武 帝) đời Lưu Tống (420-479) và Lương Vũ Đế (梁 武 帝) đã giải thích Hiếu kinh
và Đường Huyền Tông đã viết một luận giải về Hiếu kinh. Như Lo Yuet Keung chỉ ra trong bài viết của mình “Về cái chết của những hiếu nữ vào đời Tiền
Đường Trung Hoa” (On the Dearth of Filial Daughters in Pre-Tang China), Hiếu kinh là căn bản cho những mục đích
chính trị bởi vì nó phân chia hiếu thành năm phạm trù theo địa vị xã hội: thiên
tử, hoàng tử, đại thần, quan lại, và dân chúng. Thực hành hiếu trong mỗi phân
loại này là khác nhau. Vì vậy chúng ta có thể nói rằng hiếu đã là một công cụ
chính trị cho việc phục vụ vua ở trong Hiếu
kinh. Do vậy, ở đó xuất hiện lý thuyết “trị quốc với hiếu” ở triều Hán và
nó tiếp tục vào thời Nam-Bắc triều.
Khái niệm hiếu của Phật giáo chỉ là mối liên hệ giữa cha mẹ và
con cái và hoàn toàn không có những liên hệ chính trị.
2) Cha con
bao che cho nhau
Khổng Tử nói về việc cha và con bao che lẫn nhau. Đây là bởi đạo
đức Nho giáo tập trung vào luân lý gia đình và trong luân lý gia đình hiếu là cốt
tủy. Nếu cha mẹ và con cái trình báo việc làm sai trái của nhau đến quan lại
thì hiếu sẽ sụp đỗ, và luân lý gia đình sẽ khép lại chức năng. Khi một gia đình
không có yên bình, toàn thể xã hội không yên bình, bởi vì gia đình là những khối
thể xây dựng nên một xã hội. Do đó, trong Luận
ngữ, khi quan lệnh doãn huyện Diệp nói với Khổng Tử: “Ở làng tôi có một người chính trực tên là Trực Cung; khi cha đi bắt trộm
cừu thì con đi tố cáo” thì Khổng Tử nói: “Ở làng tôi người chính trực khác vậy. Cha giấu tội cho con và con giấu
tội cho cha. Sự chính trực nằm ở chỗ đó” (Luận ngữ 13.18). Mạnh Tử cũng nói:
“Đạo nằm
nơi tầm tay vậy nhưng người ta tìm nó ở nơi xa xôi; vật thì nằm nơi chỗ dễ dàng
vậy nhưng người ta kiếm tìm nơi chỗ khó khăn. Nếu mọi người yêu thương cha mẹ
và đối xử với anh mình bằng sự kính trọng, thiên hạ sẽ yên bình” (Mạnh Tử 7.11).
Rõ ràng Mạnh Tử nói chỉ
khi hiếu tồn tại trong một gia đình thì yên bình mới có thể lan tỏa trong thế
gian.
Một vài học giả hiện đại phê bình Khổng Tử vì đã biện luận cho
việc cha và con nên bao che nhau, gọi đó là suy đồi khi đặt mối quan hệ huyết
thống lên trên luật.
Nhưng chúng ta không thể tách lời nói ở trên khi thảo luận về những
hàm ý của nó, bởi Luận ngữ và những
kinh sách Nho giáo khác chẳng hạn như Hiếu
kinh, những cuốn sách chứa đựng những lời dạy của Khổng Tử, không cung cấp
cho chúng ta ngữ cảnh mà ở đó ông nói. Vì vậy chúng ta có thể phạm phải những
sai lầm. Chúng ta phải xem xét những lời nói của Khổng Tử ở trong ngữ cảnh của
chúng để có được một sự hiểu đúng hơn.
Về mối liên hệ giữa cha và con, có một yếu tố quan trọng khác.
Như chúng tôi đã chỉ ra ở trên, Khổng Tử nói về bổn phận của một người con
trong việc khuyên can và thậm chí phản đối cha mẹ của mình, không phải chỉ luôn
vâng lời mà không đặt vấn đề. Từ điểm này, rõ ràng rằng Khổng Tử nhấn mạnh rằng
một người con nên phản đối cha mẹ mình trước việc nói điều gì đó sai. Nhưng
trích dẫn của chúng tôi từ Hiếu kinh
đã cho thấy rằng khi cha mẹ tiếp tục làm điều sai trái, Khổng Tử đề cao sự hòa
hợp và đoàn kết bên trong một gia đình, mà nó muốn nói rằng cha và con nên che
giấu việc làm sai trái của nhau, vì điều này giữ cho gia đình hòa hợp, mà nó tốt
cho xã hội như một tổng thể.
Trong đạo đức học Phật giáo, việc cha con bao che cho nhau là vô
nghĩa, bởi vì cho dầu họ có thể thoát khỏi sự trừng phạt của luật xã hội, họ
không thể thoát được luật nghiệp.
3) Báo thù
cho cha mẹ
Nho giáo xem hiếu là gốc rễ của đạo đức và nền tảng của giáo dục,
vì vậy hiếu trở thành đạo thường của trời, nghĩa của đất và đạo đức của con người.
Trong thực hành hiếu, người cha là trung tâm, như Hiếu kinh nói rằng ở nơi hạnh kiểm con người không có điều gì quan
trọng hơn hiếu, và ở nơi hiếu không có điều gì quan trọng hơn kính cha. Như vậy,
Nho giáo gia cố quan điểm báo thù cho cha mẹ với việc nhấn mạnh vào hiếu. Luận ngữ nói: “Có người hỏi, ‘Ông nghĩ gì về lời nói ‘Lấy đức (德) để báo oán?’ Khổng Tử
trả lời, ‘Vậy thì lấy gì đề báo đức? Hãy báo oán với sự chính trực, và lấy đức
báo đức’” (Luận ngữ 14.34). Lễ ký cũng nói: “Với kẻ thù
đã giết chết cha mình, không nên sống cùng trời” (Lễ ký 1.70). Trịnh Huyền
(鄭 玄) đời nhà
Hán đã giải thích câu trên là “Cha là trời
đối với con. Người con sẽ là một người con bất hiếu nếu sống cùng trời với người
đã giết cha mình. Vì vậy người con nên giết người đó, và rồi dừng lại”. Khổng
Dĩnh Đạt (孔 穎 達) đời nhà Đường giải thích thêm rằng: “Cha là trời của con, và nếu cha của người ta bị giết, đó chính là giết
trời, vì vậy người ta phải giết người đó để báo thù, vì người con không thể sống
cùng dưới trời với kẻ giết cha mình kia”. Lễ ký lại nói:
“Tử Hạ hỏi
Khổng Tử: ‘Một người con nên đối xử như thế nào đối với người đã giết cha hoặc
mẹ của mình?’ Khổng Tử đáp: ‘Người ấy nên ngủ trên nệm rơm, lấy mọc làm gối;
người ấy không nên làm quan; người ấy phải kiên quyết không sống cùng trời với
kẻ sát nhân kia. Nếu ông ta gặp kẻ sát nhân kia ở chợ hay ở cung vua, ông ta
không phải quay về lấy vũ khí mà liền đánh ngay kẻ kia’” (Lễ ký 3.53).
Khổng Dĩnh Đạt đời nhà Đường giải thích thêm: “‘Ông ta không phải quay về lấy vũ khí’ có
nghĩa rằng ông ta luôn mang vũ khí bên mình, vì vậy nếu ông ta gặp kẻ sát nhân ở
chợ, ông ta không cần phải quay về tìm vũ khí của mình, mà đánh nhau liền ngay
nơi ấy”. Hoàn toàn rõ ràng rằng người ta nên báo thù cha mẹ mình và chuẩn bị
sẵn để đánh nhau bất kỳ lúc nào. Đại đới
lễ ký cũng nói: “Người ta không nên sống
cùng (cõi đời) với kẻ giết cha mẹ mình” (13.6). Tất cả chứng cứ này cho thấy
rằng Nho giáo ủng hộ việc báo thù cho cha mẹ, như là phần quan trọng của việc
thực hành hiếu. Mặc dù Mạnh Tử nói:
“Ta nay nhận
ra giết thành viên của một gia đình người khác thì nghiêm trọng thế nào. Nếu
ông giết cha người ta, người ta sẽ giết cha ông; nếu ông giết anh người ta, người
ta sẽ giết anh ông. Như vậy, mặc dù ông không tự tay giết chết cha và anh mình
nhưng cũng như giết họ”. (14.7)
Nhưng, báo thù cho cha mẹ và bà con huyết thống là rất phổ biến
vào triều Hán, khi tư tưởng Nho giáo chiếm vị trí trọng tâm và quan điểm Nho
giáo về “trị quốc bằng hiếu” được thực hiện.
Không có quan điểm báo thù như vậy trong Phật giáo, khi điều này
trái với nguyên tắc căn bản của Phật giáo. Quan điểm Phật giáo là vượt qua hận
thù bằng lòng từ bi, như một bài kệ trong kinh Pháp cú nói: “Lấy hận giệt hận
thù/ Đời này không có được/ Không hận giệt hận thù/ Là định luật ngàn thu”.
5. Kết luận
Chúng ta có thể đi đến một kết luận chừng mực rằng Nho giáo xem
hiếu là mô thức và tiêu chuẩn cao nhất của đạo đức, là đạo thường của trời,
nghĩa của đất. Còn nghiệp là nền tảng của đạo đức Phật giáo, mặc dù hiếu cũng
được xem như một nguyên tắc đạo đức quan trọng. Do đó, Nho giáo phân tích hiếu
chi tiết hơn Phật giáo. Như những Nho gia chỉ ra rằng mục đích của đạo đức Nho
giáo là xây dựng gia đình và quốc gia cùng với nhau, vì vậy mục đích của hiếu
Nho giáo là mở rộng đạo đức gia đình đến xã hội và quốc gia. Do đó Luận ngữ nói:
“Kinh thư
nói: “‘Hiếu ư, là hiếu thuận với cha mẹ; thân ái ư, là thân ái với anh em’. Bằng
cách này mà cảm hóa được người cầm quyền. Như vậy, là một người con hiếu và một
người anh em tốt đã là tham gia vào việc cai trị rồi. Vậy cần gì phải nói tham
gia vào chính sự?” (Luận ngữ 2.21).
Còn mục đích của đạo đức Phật giáo là sự tu tập bản thân để ta
trở thành một con người hoàn thiện và cuối cùng đạt được Niết-bàn.