Xá-lợi Đức Phật tại
Viện bảo tàng Patna, Ấn Độ
|
Phụng
thờ xá-lợi là một trong những thực hành phổ biến, và cũng là một sinh hoạt tín
ngưỡng có mặt từ rất sớm trong Phật giáo, có thể chỉ sau tín ngưỡng thờ phụng
cây bồ-đề[1].
Khởi xuất từ Ấn Độ, tín ngưỡng này, cùng với việc truyền bá Phật giáo ra nước
ngoài, đã có mặt khắp những quốc gia Á châu nơi Phật giáo được truyền đến và trở
thành một trong những tín ngưỡng có ảnh hưởng sâu rộng đến tận ngày nay.
Nếu
y cứ vào kinh sách, việc phụng thờ xá-lợi đã được bắt đầu từ sau khi Đức Phật
diệt độ. Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Mahāparinibbāna
sutta), khi Đức Phật diệt độ tại Kusinārā (Câu-thi-na), nhục thân của Ngài
được những người thuộc bộ tộc Mallā
hỏa táng tại đây, và xá-lợi còn lại sau khi hỏa táng đã được phân chia cho tám phái
đoàn của tám vương quốc và họ đã
mang
về xây tháp phụng thờ tại xứ sở của họ.
Trong
Phật giáo, xá-lợi (śarīra) thường được hiểu là những gì còn lại sau khi thân
xác của Đức Phật, Bồ-tát, A-la-hán, hay Thánh tăng được hỏa thiêu. Và với nhiều
người, những gì còn lại ở đây không phải là phần tro hay xương cốt, mà là những tinh
thể kết thành dạng hạt, mà đôi khi được xem như những hạt ngọc, với những màu sắc
khác nhau, như trắng, đen và đỏ. Và hẳn nhiên những tinh thể này rắn hơn xương.
Tuy
nhiên, từ xá-lợi (śarīra) – cùng với một từ khác là dhātu, một từ đa nghĩa hơn
mà thỉnh thoảng được sử dụng để chỉ cho xá-lợi – trong nghĩa gốc của nó không chỉ cho một dạng tinh thể đặc biệt còn lại
sau khi hỏa thiêu mà có nghĩa là “thân thể” hay “những bộ phận cứng của cơ thể
(như xương)”, và cũng chỉ cho “thi thể”[2].
Nhưng từ śarīra khi được chuyển dịch sang tiếng Hoa là she-li (舍
利)
và tiếng Nhật là shari, hay phiên âm Hán-Việt là xá-lợi thì thường được hiểu với
những nghĩa: thứ nhất là những thành phần kết tinh còn lại sau khi thân xác hỏa
thiêu, và thứ đến là chỉ cho nhục thân bất hoại của những vị Thánh tăng, chứ ít
ai nghĩ thi thể (dù bất cứ của ai) chưa hỏa thiêu là một śarīra.
Vấn
đề đầu tiên ở đây là thuật ngữ “sarīrapūjā” được sử dụng trong kinh Đại bát Niết-bàn, mà nó đã tạo nên những
cách hiểu khác nhau. Sarīrapūjā là một từ ghép của sarīra và pūjā. Từ sarīra,
như đã được đề cập ở trên là chỉ cho “thân thể” hay “thi thể”, còn pūjā là thờ
phụng hay thờ cúng. Một số người cho rằng thuật ngữ sarīrapūjā được sử dụng trong kinh Đại bát Niết-bàn
là chỉ cho việc phụng cúng nhục thân của Đức Phật sau khi Ngài diệt độ, mà
không phải là việc thờ phụng xá-lợi thu được sau khi nhục thân được hoa thiêu.
Việc phụng cúng ở đây không chỉ là đảnh
lễ cúng dường mà bao gồm những nghi thức và việc gì nên làm đối với nhục thân của
Như Lai. Tuy nhiên một số người khác cho rằng sarīrapūjā không chỉ là việc phụng
cúng nhục thân của Ngài khi chưa hỏa thiêu mà cũng bao gồm việc thờ phụng xá-lợi
lưu lại sau khi hỏa thiêu.
Một
số học giả, chẳng hạn như Sister Vajira[3]
và Rhys Davids đã dịch từ sarīrapūjā là “cung kính đối với những gì còn lại”[4].
Và theo cách dịch này
thì có thể hiểu “cung kính đối với những gì còn lại” là cung kính đảnh lễ xá-lợi
sau khi nhục thân
được hỏa thiêu. Trong khi một vài người khác, như M. Walshe, dịch từ này là “lo liệu lễ tang”[5].
Trong bản dịch tiếng Việt của HT. Minh Châu, từ này được dịch là “cúng dường thân
xá-lợi”: “Tại những chỗ ấy có đại chúng Sát-đế-lợi, có đại chúng Bà-la-môn, có
đại chúng gia chủ tin tưởng Như Lai, các vị này sẽ cúng dường thân xá-lợi Như
Lai (Tathāgatassa sarīra-pūjaṃ)”. Và ở một nơi khác: “Ðến ngày thứ bảy, dân
Mallā ở Kusinārā suy nghĩ: ‘Chúng ta đã tôn trọng, cung kính, đảnh lễ, cúng dường
thân xá-lợi Thế Tôn (Bhagavato sarīraṃ
jhāpessāmāti)
với các điệu múa hát, nhạc, tràng hoa, hương, nay chúng ta hãy chở thân xác xá-lợi
Thế Tôn ra ngoài thành về phía Nam và làm lễ thiêu thân tại chỗ ấy’"[6].
Tuy nhiên, vào gần cuối bản kinh, đoạn diễn tả việc phân chia xá-lợi, thì sarīrā
được dịch là xá-lợi, phần còn lại sau khi hỏa thiêu: “Và người Moriyā ở
Pipphalivana nghe tin Thế Tôn đã diệt độ liền gởi một sứ giả đến các người Mallā
ở Kusinārā: "Thế Tôn là người Sát-đế-lợi, chúng tôi cũng là người Sát-đế-lợi.
Chúng tôi cũng xứng đáng được hưởng một phần xá-lợi Thế Tôn. Chúng tôi cũng sẽ
dựng tháp và tổ chức các nghi lễ đối với xá-lợi Thế Tôn". - "Nay
không còn phần xá-lợi Thế Tôn nào. Xá-lợi Thế Tôn đã được phân chia, hãy lấy
tro còn lại". Rồi các vị này
lấy than tro còn lại”[7].
Như vậy, từ sarīrā trong kinh Đại bát Niết-bàn,
theo bản dịch của một số người, vừa chỉ cho nhục thân của Đức Phật khi chưa hỏa
thiêu, nhưng cũng chỉ cho những gì còn lại sau khi nhục thân của Ngài được hỏa
thiêu, và những gì còn lại ở đây hẳn nhiên không phải là phần đã cháy thành
tro. Và cung
kính phụng thờ (pūjā) sarīra là dành cho cả nhục thân chưa hỏa táng và cả xá-lợi
còn lại sau khi hỏa thiêu.
Trong
kinh Du hành (Trường A-hàm), bản kinh
tương đương với kinh Đại bát Niết-bàn
trong Trường bộ, xá-lợi cũng chỉ cho phần di cốt còn lại sau khi hỏa thiêu: “A
Nan, ngươi muốn tẩn táng Ta, trước hết lấy nước thơm tắm rửa thân thể; lấy vải
bông mới quấn thân thể; dùng năm trăm tấm vải lần lượt quấn vào, đặt thân vào
kim quan. Sau khi đã tẩm dầu mè, lại đặt kim quan trong một cái quách thứ hai lớn
bằng sắt, bên ngoài là lớp quách bằng gỗ hương chiên-đàn. Chất các thứ vải dày,
hương thơm lên trên mà trà-tỳ. Trà-tỳ xong lượm lấy xá-lợi, dựng tháp treo phan
thờ tại ngã tư đường để dân chúng đi ngang trông thấy tháp của Phật mà tưởng nhớ
lại đạo hóa của Pháp vương Như Lai, sống thì được phước lợi, chết thì sanh
Thiên”[8].
Và một đoạn khác: “Lúc đó dân Mạt-la nước Ba-bà nghe Phật diệt độ tại song thọ,
tự nghĩ: Ta nên đến đó cầu lấy phần xá-lợi về dựng tháp cúng dường tại trong nước’”[9].
Như
vậy, từ nghĩa gốc là “thi thể”, sarīra tuỳ theo ngữ cảnh cũng được hiểu là phần còn lại sau khi
thi thể được hỏa thiêu. Và trong sự liên hệ đến tín ngưỡng thờ tháp, điều cũng
được đề cập đến trong kinh Đại bát Niết-bàn,
thì việc cúng “dường thân xá-lợi của Như Lai” không chỉ là đối với nhục thân
khi chưa hỏa thiêu, mà cũng bao gồm việc phụng thờ phần còn lại sau khi được hỏa
thiêu: “Này Ananda, vì lý do gì, Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri xứng đáng
xây tháp? Này Ananda, tâm của dân chúng sẽ hoan hỷ khi nghĩ đến: ‘Ðây là tháp của
Thế Tôn, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri’. Do tâm hoan hỷ như vậy, khi thân hoại mạng
chung, chúng sẽ sanh lên thiện thú, cảnh giới chư Thiên. Này Ananda, vì lý do
này, Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri xứng đáng xây tháp”. Cũng cần biết rằng,
như đã được đề cập trong kinh Đại bát Niết-bàn,
bảo tháp được xây dựng là để thờ phụng xá-lợi Phật. Cũng có lẽ từ đây mà xá-lợi
được chia làm hai loại là toàn thân xá-lợi (chỉ cho nhục thân Đức Phật khi chưa
hỏa thiêu), và toái thân xá-lợi (xá-lợi được phân ra thờ trong các tháp)[10].
Tuy
nhiên trong những trường hợp khác, xá-lợi cũng chỉ cho tất cả những thành phân trên
thân thể Đức Phật, cho dù khi Ngài còn sống. Ví dụ, sau khi Đức Phật thành đạo ở
Bodhgaya, có hai vị thương nhân tên là Trapusha và Bhallika đã tìm đến đảnh lễ
và cúng dường thực phẩm cho Ngài, rồi nhận một ít tóc của Ngài và đem về xây
tháp phụng thờ tại xứ sở của họ. Những sợi tóc này được xem là xá-lợi tóc. Bên
cạnh, những kinh điển được Đức Phật thuyết giảng cũng được gọi là xá-lợi (Pháp
thân xá-lợi/ Dharma sarīra).
Và đôi khi śarīra cũng được hiểu là những vật mà Đức Phật đã sử dụng và được
truyền lưu lại.
Về
sau, bởi vì giáo pháp của Đức Phật cũng được xem là xá-lợi, và kinh sách được
xem và Pháp bảo và cũng được đồng nhất với Phật, việc tôn trí và phụng thờ kinh
sách trở nên phổ biến và được xem như là phụng thờ Phật. Và trong một số trường
hợp, tháp được xây dựng để tôn trí kinh sách mà không cần phải tôn trí những gì
khác, bởi vì trong tháp ấy đã có “toàn thân Như Lai”: “Dược Vương, bất cứ chỗ
nào có diễn giảng, có đọc tụng, có sao chép đối với kinh Pháp hoa, có đặt để cuốn kinh ấy, thì những chỗ như vậy nên xây dựng
ngôi tháp bằng bảy chất liệu quý báu rất cao, rộng và đẹp, mà không cần tôn trí
xá-lợi vào trong ngôi tháp ấy, vì trong ngôi tháp ấy đã có toàn thân của Như
Lai. Ngôi tháp ấy nên đem các loại hoa, vòng hoa, hương liệu, lọng dù, tràng
phan, kịch nhạc và thi ca mà hiến cúng, cung kính, tôn trọng và tán dương. Ai
thấy ngôi tháp ấy mà biết lễ bái hiến cúng, thì người này phải được coi là đến
gần tuệ giác vô thượng”[11].
Và
khi kinh sách được xem là Pháp thân xá-lợi, và cũng được xem như pháp thân
(dharmakāya), xá-lợi của Phật đôi khi lại được đồng nhất với ứng hóa thân
(nirmāṇakāya), một trong ba thân Phật (Buddhakāya): pháp thân (dharmakāya), báo
thân (saṃbhogakāya) và ứng hóa thân (nirmāṇakāya). Trong giáo lý Tam thân Phật,
ứng hóa thân là chỉ cho thân Phật xuất hiện ở thế gian này, và ứng hóa thân đó
là sự biểu hiện của báo thân. Xá-lợi của Phật như vậy là một biểu tượng của cả
báo thân và ứng hóa thân Phật.
Phụng thờ xá-lợi dành
cho ai?
Xá-lợi
thường được xem là kết quả của việc tu tập, vì vậy không phải ai cũng có thể để
lại xá-lợi mà chỉ những người có những công phu nhất định trong tu tập mới có
thể để lại xá-lợi. Chính vì vậy nên để có được xá-lợi là điều không phải dễ,
như kinh Kim quang minh
nói: “Xá-lợi này được xông bởi vô lượng hương liệu giới định tuệ, là ruộng phước
tối thượng, cực kỳ khó gặp”[12].
Như
vậy, xá-lợi được xem như là kết quả của việc tu chứng, hay ít nhất là việc phát
triển giới-định-tuệ đến một mức độ cao. Bên cạnh, việc để lại xá-lợi cũng để
xác tín cho một vấn đề nào đó, như thể hiện ước nguyện cao thượng hay sự đúng đắn
trong công việc của mình. Ví dụ, ngài Cưu Ma La Thập (Kumārajīva) đã để lại cái
lưỡi sau khi thân xác ngài được hỏa thiêu, để chứng minh rằng những dịch phẩm của
ngài là chính xác. Và chính vì xá-lợi được coi là kết tinh của giới-định-tuệ,
hay sự thành tựu trong tu tập, hay thể hiện sự cao cả và đúng đắn trong công việc
của mình, việc phụng thờ xá-lợi được xem là đem lại phước đức lớn cho người tôn
kính cúng dường. Và nếu đó là xá-lợi của Đức Phật thì việc phụng thờ càng trở
nên có ý nghĩa và thiêng liêng hơn.
Tuy
nhiên, lại có những
tranh cãi về việc phụng thờ xá-lợi Đức Phật, rằng có phải tín ngưỡng này là
dành cho tất cả những người đệ tử Phật nói chung, hay chỉ dành cho giới tại
gia, còn xuất gia thì không. Điều này có liên quan đến lời giáo huấn của Đức Phật
ở trong kinh Đại bát Niết-bàn, khi
Ngài trả lời Tôn giả Ananda về những gì cần phải làm đối với nhục thân của Ngài
sau khi Ngài diệt độ: “Này Ananda, các ngươi đừng có lo lắng vấn đề cung kính
thân xá-lợi của Như Lai. Này Ananda, các người hãy nỗ lực, hãy tinh tấn hướng về
tự độ, sống không phóng dật, cần mẫn, chuyên hướng về tự độ. Này Ananda, có những
học giả Sát-đế-lợi, những học giả Bà-la-môn, những học giả gia chủ thâm tín Như
Lai, những vị này sẽ lo cho sự cung kính cúng dường thân xá-lợi của Như Lai”.
Nếu
đặt đoạn văn vào trong ngữ cảnh của kinh Đại
bát Niết-bàn, thì Đức Phật dường như dạy Tôn giả Ananda rằng việc sắp xếp
tang lễ và “cung kính cúng dường thân xá-lợi của Như Lai” khi Ngài vừa diệt độ
hãy để cho những người cư sĩ tại gia lo liệu. Chính điều này mà sau khi Ngài diệt
độ Tôn giả Ananda đã đến gặp những người Mallā và nói với họ rằng: “Này
Vāsetthā, Thế Tôn đã diệt độ, hãy làm những gì các ngươi nghĩ phải làm".
Và những người Mallā sau đó đã “đem theo hương, tràng hoa, tất cả nhạc khí và
năm trăm cuộn vải đi đến Upavattana, tại rừng Sālā của dòng họ Mallā, đến tại
chỗ thân xá-lợi
của Thế Tôn, rồi chúng ở lại cả ngày tôn trọng, cung kính, đảnh lễ, cúng dường
thân xá-lợi
Thế Tôn với các điệu múa, hát, nhạc, tràng hoa, hương, làm những bảo cái bằng vải
và tràng hoa Mandala”. Và sau bảy ngày họ đã khiêng thân xá-lợi của Phật ra khỏi
thành Kusinārā từ hướng Bắc, sau đó đi qua trung tâm kinh thành rồi đến hướng
Đông của thành. Ở đó họ “dựng lên một giàn hỏa gồm mọi loại hương và đặt thân
Thế Tôn trên giàn hỏa”.
Trong
kinh Đại Thiện Kiến vương, khi Đức Phật
thông báo rằng Ngài sẽ nhập Niết-bàn tại Kusinārā thì Tôn giả Ananda bạch rằng:
“Bạch thế Tôn, Thế Tôn chớ có diệt độ tại đô thị nhỏ bé này, tại đô thị hoang
vu này, tại đô thị phụ thuộc này. Bạch Thế Tôn, có những đô thị khác to lớn hơn
như Campā (Chiêm-bà), Rājagahā (Vương-xá) Sāvatthi (Xá-vệ), Sāketa (Sa-kỳ),
Kosambi (Kiêu-thưởng-di), Bārānasi (Ba-la-nại). Thế Tôn hãy diệt độ tại những
chỗ ấy. Tại những chỗ ấy có đại chúng Sát-đế-lợi, có đại chúng Bà-la-môn, có đại
chúng gia chủ tin tưởng Như Lai, các vị này sẽ cúng dường thân xá-lợi Như Lai”[13]. Điều
này cũng cho thấy, việc phụng cúng thân xá-lợi của Đức Phật là công việc dành
cho giới cư sĩ.
Nhưng các đoạn kinh trích dẫn trên vẫn không nói đến việc
phụng thờ xá-lợi như là phần kết tinh còn lại sau khi nhục thân được hỏa thiêu
là dành cho ai. Tuy nhiên ở cuối bản kinh ta thấy rằng, việc phân chia xá-lợi
cho đến xây tháp phụng thờ đều do hàng cư sĩ thực hiện. Thêm
nữa, cho dù đặt vào trong ngữ
cảnh
của kinh Đại bát Niết-bàn và kinh Đại Thiện Kiến vương, hay cả ra khỏi ngữ
cảnh đó, đối với người xuất gia, việc thờ phụng xá-lợi của Phật hay thờ phụng bất
cứ điều gì dường như không
phải là điều được Đức Phật khuyến khích. Thay vì vậy, điều mà Ngài luôn khuyên
khích là “hãy nỗ lực, hãy tinh tấn hướng về tự độ, sống không phóng dật, cần mẫn
chuyên hướng về tự độ”. Ngay cả việc có thái độ quá yêu mến hảo tướng của Ngài,
hay việc tưởng nhớ đến Ngài qua thân tướng, cũng là điều Đức Phật phê bình.
Trong kinh Tương ưng, có đề cập đến trường hợp Đức Phật đã không đồng tình với
việc một thầy
Tỳ-kheo
đã quá coi trọng đến việc chiêm ngưỡng thân Phật. Khi nghe Tôn giả Vakkali nói
rằng thầy hối hận do vì bị trọng bệnh nên đã từ lâu “không đủ sức mạnh để được
đến thấy Thế Tôn”, Đức Phật nói rằng: “Thôi vừa rồi, này Vakkali, có gì đáng thấy
đối với cái thân hôi hám này. Này Vakkali, ai thấy Pháp, người ấy thấy Ta. Ai
thấy Ta, người ấy thấy Pháp. Này Vakkali, đang thấy Pháp, là thấy Ta. Ðang thấy
Ta, là thấy Pháp”[14].
Xa hơn nữa, theo kinh Kim cang thì: Nếu
tìm Phật qua sắc tướng, nếu tìm Phật qua âm thanh, thì người như vậy đang đi
sai đường, không thể thấy được Phật. (Nhược dĩ sắc kiến ngã/ Dĩ âm thanh cầu
ngã/ Thị nhân hành tà đạo/ Bất đắc kiến Như Lai).
Cây
bồ-đề, bảo tháp, xá-lợi, ảnh tượng, hay y bát của Đức Phật là những biểu tượng gợi
cho người đệ tử nhớ lại Đức Phật lịch sử của mình, từ đó phát khởi tín tâm, tin
vào lời dạy của Ngài và thực hiện theo chúng, và nhờ đó họ có thể có được những
lợi ích trong đời sống hiện tại và tương lai. Phước báu có được để sanh thiên,
theo như trong kinh Đại bát Niết-bàn,
là nhờ vào tín tâm và lòng hoan hỷ. Tuy nhiên, dù trong kinh Đại bát Niết-bàn không đề cập, nhưng một
người để được sanh thiên, họ không chỉ có tín tâm và hoan hỷ, mà còn phải thực
hành nhiều pháp khác, chẳng hạn như giữ năm giới,
bố thí, thực hành bốn tâm
vô lượng… Nhưng để thực hành những pháp này, trước hết họ phải có tín tâm đối với
Đức Phật và vào giáo pháp của Ngài. Điều này sẽ rõ hơn qua trả lời của Tỳ-kheo
Na Tiên (Nagasena) khi vua Mi Lan Da (Milinda) đặt nghi vấn về việc cúng dường xá-lợi,
kim thân Phật, cây bồ-đề
có mang lại phước báo hay lợi ích gì không: “Tâu đại vương! Những người cận sự nam nữ
họ đều cung kính, lễ bái, cúng dường xá-lợi, cây bồ-đề, kim thân Phật...; mặc dầu
biết rằng Đức Phật đã nhập diệt, ngài không có thỏa thích hoan hỷ gì trong những
lễ phẩm ấy; nhưng nhờ vậy, họ tưởng nhớ đến Đức Thế Tôn, tưởng nhớ đến những
pháp lớn, pháp nhỏ mà Đức Thế Tôn đã từng dạy bảo để tu tập. Nếu như sự tu tập ấy
được kiên trì, với nhiếp tâm, với tinh cần thì họ có thể được thiện sanh làm
người, làm trời, cao hơn là chứng đắc bốn đạo quả và Niết-bàn”[15].
Tuy
nhiên, về sau khi xá-lợi được đồng nhất với Pháp thân Phật, việc phụng thờ xá-lợi
đã không còn chỉ như một tín ngưỡng trong việc phát khởi hoan hỷ hay niềm tin
và mang lại phước đức, mà ở đây còn mang ý nghĩa khác. Trong kinh Dục Phật công đức, việc cúng dường xá-lợi
Phật cũng đồng nghĩa với việc cúng dường Tam thân Phật. Một người khi lễ bái
xá-lợi của Đức Phật, họ không chỉ lễ bái di cốt còn lại của Đức Phật lịch sử,
mà cùng lúc lễ bái ba thân của Ngài: “Này thiện nam tử! Chư Phật Thế Tôn có đủ
ba thân. Đó là pháp thân, thọ dụng thân (báo thân) và hóa thân. Sau khi Ta nhập
Niết-bàn, nếu muốn cúng dường ba thân này thì nên cúng dường xá-lợi (của Ta). Song,
(xá-lợi) có hai loại: thứ nhất là thân cốt xá-lợi và thứ hai là pháp tụng xá-lợi”[16].
Bản
kinh này cũng cho rằng, người đệ tử Phật, xuất gia cũng như tại gia, dù xây một
cái tháp nhỏ và tôn trí với chỉ rất ít xá-lợi hay những câu pháp kệ vào trong
đó, rồi cúng dường, đãnh lễ ngôi tháp đó với sự chí thành cung kính thì công đức
vẫn vô lượng, không khác gì việc cúng dường Đức Phật lúc còn tại thế.
Việc
phụng thờ xá-lợi hay phụng thờ tháp, dù là chỉ dành cho giới cư sĩ hay dành cho
tất cả những người đệ tử Phật nói chung, thì đây không phải là một thực hành cốt
yếu của Phật giáo. Sự phụng thờ và kính lễ xá-lợi là để tạo nên sự tin kính nơi
những người đệ tử đối với đấng đạo sư của mình, tạo nhân duyên cho việc học tập
và thực hành theo lời dạy của Ngài. Đối với Đức Phật, việc cúng dường cao quý
nhất đến Ngài là học và hành theo lời dạy của Ngài. Chính Đức Phật cũng dạy
trong kinh Đại bát Niết-bàn rằng,
chính việc tu tập theo lời dạy của Ngài mới là sự cúng dường tối thượng: “Này
Ananda, các cây sālā song thọ tự nhiên trổ hoa trái mùa tràn đầy cành lá, những
đóa hoa này rơi lên, gieo khắp và tung vãi trên thân Như Lai để cúng dường. Những
thiên hoa Mandārava từ trên hư không rơi xuống, rơi lên, gieo khắp và tung vãi
trên thân Như Lai để cúng dường. Bột trời chiên đàn từ trên hư không rơi xuống,
rơi lên, gieo khắp và tung vãi trên thân Như Lai để cúng dường. Nhạc trời trên
hư không trổi dậy để cúng dường Như Lai. Thiên ca trên hư không vang lên để
cúng dường Như Lai. Nhưng, này Ananda, như vậy không phải kính trọng, tôn sùng,
đảnh lễ, cúng dường hay lễ kính Như Lai. Này Ananda, nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni,
cư sĩ nam hay cư sĩ nữ nào thành tựu Chánh pháp và Tùy pháp, sống chơn chánh
trong Chánh pháp, hành trì đúng Chánh pháp, thời người ấy kính trọng, tôn sùng,
đảnh lễ, cúng dường Như Lai với sự cúng dường tối thượng. Do vậy, này Ananda,
hãy thành tựu Chánh pháp và Tùy pháp, sống chơn chánh trong Chánh pháp và hành
trì đúng Chánh pháp. Này Ananda, các Người phải học tập như vậy”.
Thích Nguyên Hiệp
[1]
Trong chuyện tiền thân Kalinga-Bodhi
(Kalingabodhi Jātaka, số 479) có đề cập đến trường hợp rằng, trong một lần Đức Thế Tôn đi du hóa,
dân chúng đến tịnh xá Kỳ Viên nhưng
không
gặp được Ngài nên
đã đặt những vòng hoa trước hương thất của
Ngài để tỏ lòng kính ngưỡng. Trưởng giả Cấp Cô Độc thấy vậy thì thỉnh Tôn giả
Ananda bạch với Phật rằng có nơi nào khác trong tinh xá để dân chúng có thể
dâng hoa đãnh lễ mỗi khi Đức Thế Tôn đi vắng không. Từ nhân duyên này, Tôn giả
Ananda đã bạch hỏi Đức Phật rằng có bao nhiêu loại tháp thờ và Đức Phật trả lời rằng có ba loại: tháp
thờ xá-lợi Phật (sarīrika-cetiyam), tháp thờ những vật được sử dụng hay mang mặc
(uddesika-cetiyam) (như y bát của Đức Phật), và tháp thờ vật tưởng niệm
(pāribhogika-cetiyam). Và Đức Phật cũng nói thêm với Tôn giả Ananda rằng không
thể xây một bảo tháp thờ kim thân Phật khi một Đức Phật còn tại thế, mà chỉ có
thể xây một bảo tháp thờ kim thân một Đức Phật khi Ngài đã diệt độ. Bảo tháp thờ
các vật tưởng niệm cũng không đúng vì sự nối kết chỉ dựa vào sự tưởng tượng. Và
Ngài nói thêm rằng chỉ nên sử dụng cây Đại bồ-đề làm nơi chiêm bái cho dù chư
Phật còn tại thế hay diệt độ, vì nó đã được chư Phật sử dụng. Tôn giả Ananda
nhân đó xin phép Đức Phật cho lấy một hạt giống từ cây Đại bồ-đề ở Bodhagaya
đem về trồng ở tịnh xá Kỳ Viên. Cây bồ-đề này được gọi là cây Bồ-đề Ananda. Và
việc thực hành đảnh lễ cây bồ-đề cũng bắt đầu từ đó.
[4] Trong Dialogues of the Buddha (trong Sacred of the Buddhists), T.W và
C.A.F. Rhys Davids dịch: “There there are many wealthy nobles and brahmins and
heads of houses, believers in the Tathāgata, who will pay due honour to the
remains of the Tathagata.' tr.199. (Pāli: Ettha bahū khattiyamahāsālā brāhmaṇamahāsālā,
gahapatimahāsālā Tathāgate abhippasannā, te Tathāgatassa sarīra-pūjaṃ
karisantīti).
[5]. Trong The long discourses of the Buddha (A translation of the Dīgha
Nikāya), tr.279, M. Walshe dịch: “In those places, there are wealthy Khattiyas,
Brahmins, and householders who devoted to the Tathagāta and they will provide
for the Tathagāta’s funeral in proper style”. Tuy nhiên, ở một nơi khác,
M.Walshe đã dịch sarīra là “remain” khi từ này được dùng ở số nhiều (sarīre):
“Lord, what shall we do with Tathāgata’s remains” (Pāli: Kathaṃ mayaṃ bhante
Tathāgatassa sarīre patipajjāmāti?). Hẳn nhiên là trong ngữ cảnh này thì sarīre
sẽ là hợp lý khi được hiểu là những gì còn lại sau khi hỏa thiêu, bởi vì không
thể có nhiều lễ tang hay thi thể thuộc về Như Lai trong trường hợp này. Tuy vậy,
theo một số người thì sarīre trong trường hợp này không phải là một danh từ số
nhiều mà là một từ số ít với biến cách có nghĩa là “với” hay “liên quan đến”, tức
là liên quan đến “sarīra” của Như Lai.
[7] Ở đoạn kinh này, Rhys Davids dịch sarīrā là “relics”: “We are worthy to receive a
portion of the relics of the Exalted One”; trong khi M.Walshe dịch là “remains”:
“We are worthy to receive a portion of the Lord’s remains…”.
[10] Trong kinh Pháp hoa, Toàn thân xá-lợi vừa chỉ cho toàn thân Đức Phật (Đa Bảo) ở
trong bảo tháp, nhưng toàn thân xá-lợi cũng được đồng nhất với Pháp thân. Về
sau, toàn thân xá-lợi cũng chỉ cho nhục thân của các vị Cao tăng (thường ở tư
thế kiết già) đã không bi hủy hoại trong một thời gian dài sau khi thị tịch.